Ngay sau phép rửa, Chúa đã lui vào nơi thanh vắng. Sa mạc hoang vắng là trường học của Người, cũng như nó đã là trường học của Mai-sen và E-li-a. Nghỉ ngơi là sự chuẩn bị cho hành động. Sau này Phao-lô cũng làm như vậy. Tất cả thoải mái nhân loại được bỏ lại như để “Người sống với muông thú.” Và trong suốt bốn mươi ngày, Người không ăn uống gì.
Vì mục đích Người đến là để chiến đấu với quyền lực sự dữ, cuộc đối mặt đầu tiên của Người không phải là với một một vị thầy nhân loại, nhưng là cuộc thi đấu với chính tướng qủi.
Chúa Giêsu được Thần Khí dẫn vào nơi hoang địa, để bị cám dỗ bởi ma qủi (Matthêu 4:1)
Cám dỗ là sự chuẩn bị tiêu cực cho sứ vụ của Người, như phép thanh tẩy là một chuẩn bị tích cực. Nơi phép thanh tẩy, Người đã đón nhận Thánh Thần và lời chứng nhận cho sứ vụ của Người. Nơi các cám dỗ, Người đón nhận sức mạnh đến trực tiếp từ thử thách và kiểm chứng. Có luật chung được viết ra cho mọi người trên thế gian này, đó là không ai được lãnh huy chương trừ khi trước hết là họ phải trải qua chiến đấu. Không có hào quang chiến thắng được đội trên đầu những người không chiến đấu. Các tảng băng trôi ngoài giòng nước lạnh của biển cực bắc không đòi chúng ta phải chú ý đến, chỉ vì chúng là đá băng; nhưng nếu chúng trôi chảy trong giòng nước ấm của vịnh biển phía Nam mà không tan đi, chúng sẽ lôi kéo được sự ngỡ ngàng và kinh ngạc. Chúng có thể, nếu có chủ ý, được cho là có tính cá biệt.
Lựa chọn là hành vi duy nhất người ta có thể chứng minh tình yêu; nguyên lời nói thì chưa đủ. Bởi vì, thử thách đầu tiên đã đặt ra cho con người và thử thách ấy cũng đặt ra cho tất cả mọi người khác; ngay cả các thiên thần cũng phải trải qua một cuộc thử thách. Đá băng không thể tự nhận công trạng tự làm cho nó lạnh, lửa cũng chẳng tự làm nó nóng; chỉ những ai có khả năng chọn lựa mới có thể được khen thưởng do các hành vi của họ. Chính việc trải nghiệm qua cám dỗ và sự căng thẳng khiến các chiều kích sâu đậm của cá tính được tỏ lộ. Kinh Thánh nói:
Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người. (Giacôbê 1:12).
Những việc bảo vệ linh hồn được coi là mạnh mẽ nhất khi ma qủi, kẻ bị chống, cũng mạnh mẽ. Sự có mặt của cám dỗ không có nghĩa là tình trạng thiếu vẹn toàn về luân lý nơi người bị cám dỗ. Ở trường hợp này, Chúa Giêsu của chúng ta không thể bị cám dỗ. Một khuynh hướng nội tại chiều theo sự xấu, có nơi con người, không nhất thiết là điều kiện cho một sự công kích của cám dỗ. Cám dỗ của Chúa Giêsu không do từ nội tại như nơi chúng ta, nhưng là do từ bên ngoài vào. Chủ chốt trong thử thách của Chúa không phải là cái sai lệch của cảm vị tự nhiên mà từ đó mọi người chúng ta bị cám dỗ. Đúng hơn, nó là một dụ dỗ đến với Chúa để Người từ bỏ Thiên Vụ và Công Vụ Cứu Chuộc của Người. Cám dỗ đến từ bên ngoài không nhất thiết làm suy giảm nơi tính nết; thực ra khi thống trị được, nó đạt được cơ hội thánh thiện hơn. Nếu là Người Mẫu thì Người phải dạy chúng ta cách đạt tới sự thánh thiện bằng việc chiến thắng cám dỗ.
Bởi chính Người đã trải qua thử thách của đau khổ, Người có thể giúp những người đang gặp thử thách lúc này (Do Thái 2:18).
Điều này được dẫn chứng nơi nhân vật Angelo trong tác phẩm “Đo Lường cho Đo Lường” (Measure for Measure): Một đàng là bị cám dỗ. Đàng khác là Sa Ngã.
Kẻ cám dỗ thì đầy tội lỗi, nhưng Đấng bị cám dỗ lại vô tội. Cả lịch sử thế giới vây quanh hai nhân vật A-dong và Đức Kitô. A-dong đã được đặt vào một địa vị để duy trì vị thế của ông, và ông đã không làm được. Do đó sự mất mát của ông là sự mất mát của cả nhân loại; bởi vì ông là đầu. Khi một vị thủ lãnh tuyên chiến, thì toàn dân cũng tuyên chiến, cho dù chính họ không nói lời tuyên chiến. Khi A-dong tuyên chiến chống lại Thiên Chúa, con người cũng tuyên chiến.
Với Đức Kitô, mọi cái lại bị đe dọa thêm lần nữa. Cám dỗ của A-dong lại tái xuất hiện. Nếu Thiên Chúa đã không mặc lấy bản tính của loài người thì Người không thể bị cám dỗ. Cho dù Thiên Tính và Nhân Tính nơi Người kết hiệp trong một Ngôi Vị, Thiên Tính Người không bị mất đi do bởi Nhân Tính, cũng không phải là Nhân Tính của Người bị nuốt trửng làm mất quân bình qua việc liên kết với Thiên Tính của Người. Vì Người có nhân tính nên Người bị cám dỗ. Nếu Người trở nên giống chúng ta trong mọi sự, thì Người phải trải qua cảm nghiệm nhân loại là chống trả cám dỗ. Đó là lý do tại sao, trong Thư gởi tín hữu Do Thái, chúng ta được nhắc nhở Người gần gũi thế nào với con người qua những thử thách của Người:
Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. (Do Thái 4:15).
Đó là phần pháp trị của Thiên Chúa để làm cho con cái của Người nên hoàn thiện qua thử thách và đau khổ. Chỉ qua việc vác Thập Giá người ta mới có thể đạt tới sự sống lại. Đây chính là phần trong Sứ Vụ của Chúa mà ma qủi đã tấn công. Các cám dỗ đó nhằm làm cho Chúa đổi ý trong công việc Cứu Chuộc bằng việc hiến tế. Thay vì Thập Giá là phương tiện chiến thắng các linh hồn con người, Sa-tan đã đề nghị ba lối tắt để nên nổi tiếng: Thứ nhất là lối kinh tế, thứ hai là lối đặt nền trên việc làm ngoạn mục hư danh, và thứ ba là lối chính trị. Ngày nay ít người còn tin là có ma qủi, điều này khiến ma qủi rất thích. Ma qủi luôn phao tin là nó đã chết rồi. Bản chất của Thiên Chúa là hiện hữu và Người xác định Người là “Đấng Hiện Hữu.” Bản chất của ma qủi là dối trá và nó phỉnh gạt là “Nó không hiện diện.” Sa-tan không gặp khó khăn đối với những người không tin là nó hiện diện; bởi vì những người đó đã thuộc về phe của hắn rồi.
Các cám dỗ của con người thật dễ để phân tích, bởi vì chúng luôn luôn thuộc về một trong ba loại: Một là chúng thuộc về thể xác (mê dâm dục và mê ăn uống), hai là về trí khôn (kiêu ngạo và ghen ghét), ba là yêu thích thờ ngẫu tượng (tham lam). Mặc dù con người bị xô đẩy trong cuộc sống với ba loại cám dỗ này, cường độ họ đối diện có khác biệt tùy theo tuổi đời. Lúc còn trẻ người ta thường bị cám dỗ về đức trong sạch và có khuynh hướng phạm tội về xác thịt. Ở tuổi trung niên, thân xác ít đòi hỏi hơn và cám dỗ nơi trí khôn trở nên mạnh mẽ hơn, kiêu ngạo và khát khao quyền lực nổi bật lên; khi đến tuổi về chiều, các cám dỗ tích trữ hám lợi kéo đến. Thấy cuộc đời đã gần tàn người ta muốn xua đuổi những hoài nghi về sự ổn định đời đời và ơn cứu độ, bằng cách thu tích chất chứa cho nhiều của cải dưới đất và tăng bội bảo đảm kinh tế vật chất của họ. Đó là cảm nghiệm tâm lý chung của những người đã sống theo dục vọng thời tuổi trẻ thì thường họ cũng sẽ lỗi phạm tham lam tích trữ lúc về già.
Những người tốt không bị cám dỗ giống như những người xấu, và Con Thiên Chúa, Đấng làm người, không bị cám dỗ ngay cả giống như một người tốt. Những cám dỗ của người nghiện rượu là “quay trở lại cái ông đã nôn mửa ra,” như Thánh Kinh nói, tuy là chúng không giống như những cám dỗ của một vị thánh đối với sự kiêu ngạo, dù là thế, những cám dỗ đó không phải là không có thực.
Để hiểu được những cám dỗ của Đức Kitô, cần phải nhớ lại phép rửa của Gio-an, khi Đấng không có tội tự nhận mình với những người có tội, các tầng trời mở ra, và Cha trên trời công bố Đức Kitô là Con Yêu Dấu của Người. Sau đó Chúa Giêsu đi vào hoang địa ăn chay bốn mươi ngày, và Thánh Kinh nói “Người đói,” đây là một lời tuyên bố giảm cân lượng. Sa-tan đã cám dỗ Người bằng cách giả đò giúp Người giải quyết vấn nạn: Làm thế nào để Người hoàn tất mục đích cao cả của Người giữa nhân loại? Vấn đề là để chiến thắng lòng người. Nhưng bằng cách nào? Sa-tan đã có qủi kế của Sa-tan, đó là, bỏ qua vấn đề tội lỗi và sự cần thiết phải đền bù, và chú tâm vào những yếu tố hoàn toàn trần tục. Tất cả ba cám dỗ đều tìm cách dụ dỗ Chúa loại bỏ Thập Giá, và do đó không có việc cứu chuộc. Sau này Phêrô cũng cám dỗ Chúa giống như thế, và cũng vì thế mà lúc đó ông đã bị gọi là “Sa-tan.”
Thân xác con người mà chính Người đã mặc lấy, không phải là để hưởng nhàn, nhưng là để chiến đấu. Sa-tan đã thấy Chúa Giêu là một người ngoại thường mà hắn nghi là Đấng Cứu Thế và là Con Thiên Chúa. Do đó hắn đã khởi đầu mỗi cám dỗ bằng giọng điệu giả định “nếu.” Giả như hắn biết là hắn đang nói với Thiên Chúa, thì dĩ nhiên là hắn đã không cố gắng cám dỗ Người. Nhưng nếu Chúa của chúng ta chỉ nguyên là một con người được Thiên Chúa chọn làm công việc cứu chuộc, thì hắn sẽ làm đủ cách trong quyền lực của hắn để dẫn đưa Người vào những cách thức làm việc với tội lỗi của nhân loại khác với những phương cách mà Thiên Chúa chọn để thực hiện.
.