Nhiều lần hiện ra của Chúa Cứu Thế Phục Sinh đã bất ngờ và thật ngỡ ngàng không được chuẩn bị; nhưng đã có một lần được hẹn trước khi Người đi vào cuộc thương khó. Người đã bảo các Môn Đệ là Người sẽ đi trước họ đến Galilê. Sau khi Sống Lại, thì thiên thần, rồi sau đó là chính Chúa đã hẹn trước như thế, điều đó đã khiến nó trở nên một điều đặc biệt quan trọng. Địa điểm chính xác ở Galilê không được ghi lại và nó cũng không quan trọng là ở trên Núi Tám Mối hay ở núi Tabor. Cũng không rõ số người có mặt tại đó là bao nhiêu người ngoài các Môn Đệ, nhưng điều được nói rất rõ là mười một người đã có mặt ở đó, cho thấy việc mất đi một người trong nhóm tông đồ đoàn đã không được thêm vào cho đến Lễ Thánh Thần Hiện Xuống. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã có những cuộc hẹn trên núi. Núi Moira là nơi gặp gỡ với Abraham; Núi Horeb, là nơi gặp gỡ với Mai-sen. Khi các Môn Đệ giữ cuộc hẹn này trên núi nơi Chúa Cứu Thế Phục Sinh đã nói cho họ đến để gặp Người thì họ:
Phủ phục xuống trước mặt Người (Mt 28:17)
Người nói với họ:
Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. (Mt 28:18)
Khi Người nói toàn quyền trên trời dưới đất đã được trao cho Người, Người không có ý nói như Con Thiên Chúa, vì điều đó đương nhiên đã thuộc về Người theo Bản Tính. Đúng hơn đó là quyền lực mà Người có được nhờ vào Cuộc Khổ Nạn, và cái Chết của Người và điều đã được Danien tiên báo, khi thấy trong thị kiến, Con Người với quyền lực và vinh quang muôn đời. Quyền lực trao cho Người đã được báo trước trong Sáng Thế Ký, đó là Người, Đấng là miêu duệ của người phụ nữ, sẽ đạp dập đầu con rắn. Nước thế gian mà hắn hứa với Người rằng nếu Người muốn là vị cứu thế theo chính trị thì nước thế gian sẽ thuộc về Người. Uy quyền của Người mở rộng toàn cõi đất, tất cả mọi linh hồn đã được mua chuộc bằng giá máu của Người. Uy quyền này như thuộc về Con Người đã được không những ở dưới đất nhưng cũng ở trên trời. Lời của Người bao gồm Sự Sống Lại và Lên Trời; như Sự Sống Lại đã cho Người quyền lực thống trị tội lỗi và sự chết ở trần gian, thì việc Lên Trời cho Người quyền lực trên trời để hành động như đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người.
Lời phán ra thứ hai là kết quả của lời thứ nhất. Nếu tất cả quyền lực đã được trao cho Người trên trời dưới đất, thì Người có quyền trao quyền ấy lại cho ai tùy ý Người. Điều quan trọng là quyền mà Người ủy nhiệm đó phải được trao cho những người ở cùng thời với Người để Người có thể chuyển giao cho họ. Giây điện dài một ngàn năm trăm hay hai ngàn dặm cách xa bình phát điện không thể chuyền điện. Bất cứ quyền hành nào nhân danh Đức Kitô cần phải được trao ban cho từ chính Đức Kitô và tiếp tục chuyển trao qua các thế kỷ trực tiếp từ những người nhận được quyền đó.
Khi ở trần gian Người đã thi hành ba quyền Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế. Bây giờ khi Người sắp rời xa họ để về trời là chốn nguyên thủy của Người, Người ủy nhiệm ba quyền hành này cho các Môn Đệ: quyền tư tế để họ tiếp tục làm mới Tưởng Niệm cái chết của Người và ban cho họ quyền tha tội; quyền ngôn sứ hay chỉ dạy, bằng việc hứa ban Thần Chân Lý Đấng sẽ nhắc cho họ về tất cả những điều Người đã dạy cho họ và làm cho họ nên một trong đức tin; quyền vương đế (như Cha của Người đã ban cho Người) do đó họ có quyền cầm buộc hay tháo cởi. Không còn nghi ngờ về mục đích của Người đến là để kéo dài chức Tư Tế của Người, Chân lý của Người và Vương quyền của Người, Người đã truyền cho các Môn Đệ của Người đến với thế giới:
Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. (Mt 28:19-20)
Nếu lệnh truyền này chỉ được trao trong khoảng thời gian giới hạn của các Môn Đệ, chắc chắn họ không thể đi đến tất cả mọi quốc gia. Động lực hay công lực được truyền giao cho các Môn Đệ qua người đầu là Phêrô vẫn được tiếp nối cho đến khi Chúa Kitô trở lại lần thứ hai. Không còn nghi ngờ gì liên quan đến quyền lực và việc làm của Hội Thánh khi Chúa rời trần gian. Từ hôm đó công việc Rao Giảng Truyền Bá Đức Tin bắt đầu. Các Tông Đồ và những vị kế nhiệm không còn được coi là những thầy dạy của riêng dân Israen; từ giờ trở đi toàn thế giới thuộc về họ. Họ cũng không phải chỉ lo chỉ dạy; vì Người, Đấng chuyển giao, không phải chỉ là một thầy dạy; họ còn phải tuyển chọn môn đệ từ mọi quốc gia; và tinh thần môn đệ hàm ý hàng phục tấm lòng và ý muốn dâng cho Thiên Chúa là Chủ Tể. Quyền lực Thập Giá Cứu Chuộc của Người sẽ vô ích trừ khi các tôi tớ của Người dùng nó để nối kết các thụ tạo khác vào với Người. Như Mẹ Maria đã cho Người tính nhân loại bây giờ được vinh quang trong Ngôi Vị của Người, thì con người trao hiến tính nhân loại của họ cho Người, chết như Người đã chết, hầu họ được bước vào vinh quang với Người.
Việc liên hiệp này vào với Người được khởi sự từ phép rửa, như Người đã nói với Nicođêmô. Trừ khi một người được tái sinh trong nước và Thánh Thần họ không thể vào Nước Thiên Chúa. Như khi một người được sinh ra bởi xác thịt thì họ có xác thịt, thì khi một người được sinh ra bởi Thần Khí cũng làm cho họ tham dự vào Thiên Tính của Người. Phép rửa được cử hành không chỉ trong “các tên” của ba Ngôi Vị trong Chúa Ba Ngôi, vì nói như thế là ám chỉ có nhiều chúa, đúng hơn là được trao ban nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, vì Ba Ngôi chỉ là một Chúa trong cùng một bản tính Thiên Chúa. Một suy luận so sánh không mấy hoàn hảo tương tự với đời sống của chúng ta, như trí hiểu và tình yêu của chúng ta đều từ bản tính nhân loại; thì Quyền Lực của Ngôi Cha, sự Khôn Ngoan của Ngôi Con, và Tình Yêu của Ngôi Thánh Thần tất cả là một trong Bản Tính Thiên Chúa. Như ba góc của một tam giác không làm ra ba hình tam giác nhưng chỉ là một hình tam giác; như cục đá băng, nước và hơi bốc là ba hiện tượng của cùng một bản tính, H2O, do đó cách vô hạn trên hết tất cả những cái hữu hạn, Quyền Lực, Khôn Ngoan, và Tình Yêu chỉ là Một Thiên Chúa.
Uy quyền này Người đã trao cho họ và quyền đó được trải đi khắp mặt đất có thể vẫn còn lưu lại trong trí của các Môn Đệ một mối nghi ngờ liên quan đến sự Hiện Diện của Người với họ. Nghi ngờ này được làm sáng tỏ khi Người bảm đảm với Hội Thánh của Người:
Hãy vững tâm, Thầy luôn ở với anh em cho đến ngày tận thế. (Mt 28:20)
Lời hứa này không có giới hạn; nó có hiệu lực cho đến ngày tận thế. Thiên Chúa đã hứa với Abraham rằng Người sẽ ở với ông; Mai-sen và Aaron đã được nói cho biết rằng Người sẽ nói qua môi miệng của họ; Josua và Mai-sen được hứa rằng Thiên Chúa sẽ ở với họ; và Salomon được bảo đảm là Thiên Chúa sẽ ở với ông trong việc xây dựng nhà của Người. Jeremiah, khi ông nại là dốt nát ngu muội, đã được hứa là Thiên Chúa sẽ đặt lời của Người vào môi miệng ông. Nhưng ở những trường hợp này, Sự Hiện Diện của Chúa chỉ kéo dài trong thời gian cuộc đời của những người được nhận lời hứa. Sự giới hạn đối với hiệu lực của lời hứa Bảo Vệ và Hiện Diện của Thiên Chúa không có trong trường hợp của các Môn Đệ. “Các Cửa Hỏa Ngục không thể chống phá Hội Thánh,” Người đã nói với Phêrô. Lời bảo đảm đó được nhắc lại lần nữa: “Thầy luôn ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế.”