Sự chống đối và thù ghét từ những người Pharisiêu, Biệt Phái, và ban lãnh đạo đền thờ đối với Chúa tăng lên từ trong ra ngoài, như ở trong lòng của hầu hết mọi người; thứ đến, họ còn công khai bày tỏ sự thù ghét đối với các môn đệ của Người; và họ cũng công khai tỏ ra thù ghét đối với dân chúng; và sau cùng, sự thù ghét đó nhắm thẳng đến Chúa.
Những tâm tư xấu xa của lòng họ, được tỏ ra khi một người bị bệnh tê liệt được đưa đến với Chúa ở Capharnaum. Thay vì làm phép lạ ngay, Chúa đã tha tội cho ông. Vì các thứ đau yếu bệnh tật, sự chết, sự xấu là hậu quả của tội lỗi, dù không nhất thiết là tội riêng của một người, Người đã nhắm đến cội rễ của căn bệnh, đó là tội lỗi, và ơn tha thứ:
Này anh, tội của anh đã được tha (Mc 2:6).
Thay vì nhìn nhận phép lạ như dấu làm chứng cho Người đã làm được phép lạ, những kẻ thù nghịch lại chất vấn:
Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng! Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa? " (Mc 2:7).
Họ không lầm lẫn về những ám chỉ là Đức Kitô đã hành động như Thiên Chúa. Cựu Ước đã nói về uy quyền đó dành riêng cho Thiên Chúa mà thôi. Đúng vậy, chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội, nhưng Thiên Chúa cũng có thể làm việc ấy và đang làm việc ấy ngay lúc này qua nhân tính của Người. Sau này, Người còn trao ban quyền ấy cho các Tông Đồ và những người kế vị họ:
"Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (Ga 20:23).
Nhưng con người khi thi hành quyền này họ vẫn chỉ là những khí cụ nhân loại đại diện cho Thiên quyền của Người, giống như trong cách cao cả hơn khi nhân tính của Người là khí cụ cho Thiên Tính của Người. Tuy là những ý nghĩ của người Pharisiêu vẫn còn kín giữ trong đầu của họ, nhưng không ý nghĩ nào của con người mà Thiên Chúa không biết được.
Tâm trí Đức Giê-su thấu biết ngay họ đang thầm nghĩ như thế, Người mới bảo họ: "Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy? Trong hai điều: một là bảo người bại liệt: "Con đã được tha tội rồi", hai là bảo: "Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi", điều nào dễ hơn? Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội, -Đức Giê-su bảo người bại liệt, Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà! " Người bại liệt đứng dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ bảo nhau: "Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ!” (Mc 2:8-12).
Theo quan điểm suy nghĩ của họ, Chúa mắc tội phạm thượng vì Người tự nhận có quyền của Thiên Chúa. Liên quan đến vấn đề Chúa có quyền tha tội, Người đã tỏ cho họ thấy là Người đã không tuyên bố suông. Dù họ không phủ nhận được cái họ đã trông thấy, họ vẫn không chấp nhận uy quyền của Người. Đức tin nơi Chúa Kitô tăng lên trong dân chúng nhưng lại giảm đi nơi những người Pharisiêu, và những người Biệt Phái, nơi các Tiến Sĩ Luật và ở các dân làng Galilêa, Giuđêa và Giêrusalem. Các phép lạ không nhất thiết là phương thuốc chữa cho triệu chứng thiếu đức tin. Nếu lòng muốn trở nên băng hoại trong ngoan cố, thì mọi chứng cớ trên thế gian cũng chẳng thuyết phục được, ngay cả đến việc sống lại từ cõi chết.
Cho đến lúc này, nhóm Biệt Phái và những người khác mới chỉ nghĩ xấu. Sự thù ghét bây giờ được công khai nói ra trên môi miệng chống lại các môn đệ của Chúa. Dịp Chúa gọi Mathêu, một người thu thuế, làm môn đệ. Một người thu thuế và là người Do Thái đã phản bội dân tộc để làm người thu thuế cho người Roma, kẻ thống trị đất nước của họ. Người thu thuế hứa thu một số thuế trong cộng đồng; nhưng tất cả những cái họ thu trội qúa lên thì được giữ lại cho riêng họ. Điều này là nguyên cớ tạo ra nhiều sự gian dối, như kết quả cho thấy là người thu thuế bị khinh miệt nhất trong dân.
Khi Chúa trông thấy một người thu thuế làm việc ở bàn thu thuế, Người đã không hứa gì với Mathêu cả, nhưng chỉ đơn giản nói, “Hãy theo Ta.” Mathêu đã tức khắc đi theo. Ông đã từng là người phản quốc bậc nhất và sau này lại là người viết cuốn Tin Mừng thứ nhất và trở nên người ái quốc nhất, lần trở về lịch sử hàng mấy trăm năm từ thời các tiên tri dẫn chứng về vinh quang của dân Israen được sinh ra Đấng Cứu Thế.
Chúa nhận lời mời đến dùng bữa tại nhà của Mathêu. Đây là một việc coi là gương mù đối với những người Pharisiêu và tính công chính thẳng thừng của họ.
Khi Đức Giê-su đang dùng bữa tại nhà ông ấy, có nhiều người thu thuế và tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. (Mt 9: 11).
Họ đã chất vất các môn đệ:
"Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?” (Mt 9:11).
Người đã được coi như một bậc Thầy và là một Nhà Giáo, nhưng bây giờ Người lại làm mất uy tín của Người trong việc giao lưu với những người thấp hèn trong xã hội. Nếu những người bệnh phong kéo đến, như vậy không phải việc làm bạn với những người tội lỗi như thế cũng là chứng cớ Người là người tội lỗi hay sao?
Trước khi đọc được ý nghĩ của họ; lần này các môn đệ có lẽ đã thưa trình tới Người về việc cáo buộc của những người Pharisiêu, và Người đã trả lời rằng chính vì Người không giống những người tội lỗi do đó Người đã đến với những người tội lỗi. Hình thức cứng ngắc của những người Pharisiêu chỉ chú trọng đến những của lễ bề ngoài và coi thường của lễ hy sinh chân thật của bản thân, cái có thể cứu được những người có tội. Họ tự nhận là những người thông thạo Kinh Thánh, do đó Chúa đan cử lời Hosea cho những người Pharisiêu thấy rằng Thiên Chúa thích lòng thương xót hơn hình thức bề ngoài.
"Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: "Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi." (Mt 9:12-13).
Một lần nữa Người nói rằng Người đến thế gian, chứ không phải là Người được sinh ra từ thế gian. Người luôn xác nhận là Người đã không được bắt đầu trong thời gian, nhưng Người là Thiên Chúa bước vào thời gian và đã trở nên cái mà Người không phải nguyên thủy là, đó là làm con người. Và lý do Người đến không phải là để viết một hệ luật luân lý mới; Người đến để cứu giúp những người tội lỗi. Những người như nhóm Pharisiêu, đã từ chối không nhận là yếu đuối tội lỗi thì không cần đến Người như vị Lương Y cho linh hồn của họ. Người mù mà không nhận ánh sáng thì chẳng bao giờ có thể được chữa hết mù. Không phải chỉ đơn thuần cậy dựa vào hình thức của lề luật được hiểu như “của hiến tế,” nhưng Người đến là để nâng những người đã sa ngã giúp họ đứng dạy. Như một Lương Y, Người không thể làm gì được cho những người chỉ muốn tò mò dò xem, hay không nhận tội, hoặc là như cái được gọi là (Oedipus complex) tính dục vô thức. Người đến chỉ để tìm cứu chữa những người có tội, và do đó chỉ những người có tội, chứ không phải người công chính, được hưởng ích lợi từ việc Người đến.
Yêu thương những người tội lỗi là cái gì mới lạ ở trần thế. Nếu Người đến với tư cách là một nhà giáo thì Người đã viết luật lệ của Người ra giống như Lão Tử, và Người đã truyền cho các môn đồ “Học và thi hành.” Nhưng vì Người đến là Đấng Cứu Thế và hiến mạng sống của Người “như của lễ đền tội,” Người đã truyền cho các môn đồ của Người khử trừ sự xấu:
Ta đến không phải để kêu gọi những người công chính, nhưng là để kêu gọi những người tội lỗi ăn năn sám hối (Lc 5:32)
Sự chống đối bây giờ trở nên công khai hơn khi Chúa chữa một người bị qủi câm ám. Lộ ra sự bí mật kín đáo từ lòng dạ đen tối, sự chống đối được trực tiếp cổ động trong dân để chống bác Người. Đám đông đã thấy phép lạ đầy ngạc nhiên, nói là chưa bao giờ họ thấy như thế trong Israen. Điều này khiến cho những người Pharisiêu lại công khai phạm thượng:
Ông ta dựa quyền tướng qủi mà trừ qủi (Mt 9:34).
Chúa đã trả lời cáo buộc của họ bằng cách tỏ cho họ thấy rằng Người loại trừ Satan là bởi uy quyền của Thiên Chúa, và dùng sự so sánh từ một căn nhà bị chiếm giữ bởi người có sức mạnh. Nhưng khi một người có sức mạnh hơn đến sẽ tước đoạt tất cả khí giới, sự phòng vệ và của cải ở trong căn nhà đó. Chúa nói là nếu Người đến lãnh thổ của ma qủi, và chiếm giữ lấy căn nhà, giống như thân thể của người bị qủi ám, thì đó là sự bày tỏ quyền lực mạnh mẽ hơn Satan, và nó không gì khác hơn là quyền lực của Thiên Chúa. Nhưng vì họ nói là Người đã dùng quyền của thần dữ, họ vướng vào tội không thể tha thứ được. Họ đã tự đặt mình vào tình trạng không thể tha thứ. Nếu họ làm độc giòng suối nước sự sống, nơi duy nhất có thể giải khát cho họ, thì đương nhiên họ phải chết vì sự độc hại đó. Nếu họ phạm thượng chống lại Đấng mang đến ơn tha thứ, thì họ hy vọng ơn tha thứ từ đâu? Người điếc không nhận mình điếc sẽ chẳng bao giờ nghe được. Những người tội lỗi mà không nhận tội, và không nhận phương thuốc chữa lành khỏi tội, thì như vậy muôn đời họ tự phân cách mình ra khỏi Đấng đến để cứu chuộc.
Màn chống đối cuối cùng của họ nhắm thẳng vào chính Chúa.
Hôm ấy, vào ngày sa-bát, Đức Giê-su đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ thấy đói và bắt đầu bứt lúa ăn. Người Pha-ri-siêu thấy vậy, mới nói với Đức Giê-su: "Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát! " (Mt 12:1-3).
Cựu ước không cấm ngắt bông lúa mì từ cánh đồng; nhưng làm như thế trong ngày Sabbat, đối với những người Pharisiêu, là phạm hai tội. Theo luật Talmud thì:
Trường hợp một người phụ nữ xay lúa và nhặt trấu ra, thì đó cũng là sàng sẩy; nếu bà nẩy hạt lúa mì, thì đó cũng là bóc hạt lúa; nếu bà làm sạch những hạt lúa mì thì đó cũng là lựa lọc hạt tốt; nếu bà đập dập vỏ lúa, thì đó cũng là xay lúa; nếu bà dùng tay tung lúa lên thì đó cũng là rê lúa.
Điều làm những người Pharisiêu tức tối không phải là coi thường lề luật của Thánh kinh, nhưng là coi thường đạo luật Do Thái. Trông thấy điều mà họ nghĩ là xúc phạm đến luật ngày Sabbat, họ công khai tấn công Chúa vì việc làm của các môn đệ.
Câu trả lời của Chúa gồm ba khía cạnh: thứ nhất, Người trích lời các Tiên Tri, rồi đến lề luật, và đến Đấng còn cao hơn cả tiên tri và lề luật, đó là chính Người. Cả hai lần trích dẫn đều là những trường hợp trọng hình thức bên ngoài hơn là luật cao trọng hơn. Chúa đã nêu tấm gương tầm mức quốc gia như vua Đavid, người đã ăn bánh thánh chỉ dành riêng cho các tư tế mới được ăn. Nếu họ cho phép Đavid không giữ luật Chúa theo hình thức của nghi lễ để ăn cho khỏi đói, thì tại sao họ không cho phép các môn đệ của Người? Khi Đavid đang chạy trốn Saolê và bị đói, Chúa nói là ông và những người hầu cận:
Ông Đa-vít đã làm gì, khi ông và thuộc hạ đói bụng? Ông vào nhà Thiên Chúa, và đã cùng thuộc hạ ăn bánh tiến. Thứ bánh này, họ không được phép ăn, chỉ có tư tế mới được ăn mà thôi. (Mt 12:4).
Những người Pharisiêu chắc chắn sẽ phải nhận là mạng sống quan trọng hơn lề luật; nhưng còn hơn thế, David đã được phép ăn bánh thánh không phải chỉ vì ông đói nhưng vì ông nại đến lý do ông là vua và thuộc hạ của ông làm bổn phận phục vụ vua. Các Tông Đồ, những người theo Chúa, cũng làm việc cho đấng cao cả hơn; và chăm lo cho Người thì quan trọng hơn là lo cho David một người trần gian.
Sau đó Chúa trả lời thẳng ngay đến lời họ cáo buộc lỗi luật ngày Sabbath. Những người cáo buộc Người cũng đã làm việc trong ngày Sabbath; họ cũng đã chuẩn bị của lễ, họ thắp đèn; và vì là một phần của việc phục vụ đền thờ, những việc đó không được coi là lỗi luật ngày Sabbath. Nhưng ở đây, trong ngày Sabbath, ở giữa cánh đồng lúa, và không bị ràng buộc bởi những hào nhoáng khác là sự hiện diện của Đấng cao trọng hơn cả đền thờ.
Ta bảo thật các ngươi, ở đây còn có cái cao trọng hơn cả đền thờ (Mt. 12:6).
Những lời nói chắc nịch này người Pharisiêu lại cho là lời phạm thượng, nhưng những lời đó lại là một xác nhận khác về điều Người nói khi Người thanh tẩy đền thờ lần thứ nhất tại Giêrusalem, đó là Thân Thể của Người chính là Đền Thờ vì Thiên Chúa ngự ở đó. Ở nơi Người Thiên Chúa ngự trị; chẳng còn có nơi nào khác ở trần gian được tìm thấy Thiên Chúa ngoài ở nơi Người. Bởi thế các Tông Đồ, nếu họ đã không tuân giữ luật nghi lễ, thì chẳng có tội vạ gì vì họ làm việc phục vụ Đền Thờ chân thật, hơn thế, đó là phục vụ chính Thiên Chúa.
Tất cả có 7 lần họ đã cáo buộc Người lỗi luật ngày Sabbath. Người đã làm cho họ phải im miệng một lần ở hội đường Capharnaum, sau khi chữa lành cho người bị bại tay bằng lời nói:
"Ai trong các ông có một con chiên độc nhất bị sa hố ngày sa-báth, lại không nắm lấy nó và kéo lên sao? Mà người thì quý hơn chiên biết mấy! Vì thế, ngày sa-bát được phép làm điều lành." (Mt. 12:12-13).
Bây giờ sự chống đối gần sát hơn. Từ lòng oán ghét, đi đến những tranh luận với các môn đệ, rồi đến những lời cáo buộc là phạm thượng nghe được từ dân chúng, và sau cùng là đến chính Chúa. Không thể đối đáp lại được với Người, sau phép lạ ở Capharnaum:
Ra khỏi đó, nhóm Pha-ri-sêu bàn bạc để tìm cách giết Đức Giê-su. (Mt. 12:14).
Chúa rút lui tránh khỏi sự xung đột. Chưa đến lúc để xử họ. Thánh Mathêu, lúc này, trích dẫn lời tiên tri Isaia tiên báo sự hiền lành của Đức Kitô:
Người sẽ không cãi vã, không kêu to, chẳng ai nghe thấy Người lên tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Người đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người. (Mt. 12:20-21).
Không gì yếu ớt hơn cây sậy đã bị dập, loại cây mà những người chăn chiên đôi khi dùng để làm sáo thổi; cũng chẳng có gì yếu ớt hơn là cái tim đèn bị tàn lụi chập chờn tắt. Vậy mà Người chẳng bẻ gẫy hay dập tắt đi; đó là lòng từ bi nhân hậu của Người. Người sẽ không dập tắt lòng mến yếu ớt nhất người ta có đối với Người, cũng chẳng coi bất cứ linh hồn nào là vô dụng. Tim đèn bốc khói không còn chiếu sáng trong phòng được nữa, nhưng không linh hồn nào bị coi là hư hỏng vứt bỏ đi. Cây sậy bị dập không còn dùng được để làm sáo thổi lên những khúc nhạc du dương, nhưng không linh hồn nào bị con là hư hỏng vô dụng không còn hy vọng cùng nhịp điệu với dàn nhạc hòa tấu trên trời. Cây sậy bị dập có thể sửa nắn lại, và tim đèn bốc khói có thể được tái cấu bằng uy quyền và ơn thánh ngoài sức riêng của chúng.
Tin mừng không thể chọn, ở giữa những xung khắc, oán ghét và căm tức, một lúc nào tốt hơn để vẽ lên bức tranh nhẫn nại, hiền lành và bao dung hơn là ở giữa những cuộc tấn công của các Luật sĩ và Pharisiêu. Họ là những nhóm người đối địch nhau, nhưng vì họ có chung một đối thủ, nên họ thông đồng hiệp sức tìm đến gặp Người lần này giả đò tử tế họ hỏi:
Thưa Thầy xin Thầy cho chúng tôi một dấu chỉ (Mt. 12:39)
Những phép lạ chữa lành và các phép lạ khác đã không đủ cho họ, họ nói. Họ muốn có vài dấu lạ đặc biệt khác từ trời. Người trả lời:
"Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Giô-na” (Mt. 12:39).
Có bản dịch nói là thế hệ “Ngoại tình”, bởi vì tội ngoại tình được dùng theo nghĩa bóng chỉ về tinh thần bất trung đối với Thiên Chúa. Một lần nữa Người lại xác nhận tầm quan trọng của việc hành xử luân lý như một điểm then chốt để nhìn nhận chân lý. Người so sánh cách hành xử thực tế và đức tin thống hối của dân thành Nineveh khi nghe Jonah rao giảng, và đức tin cùng lòng nhiệt thành của Nữ Hoàng Sheba khi bà nghe lời khôn ngoan của Salomôn, với sự cứng lòng không sám hối của những Luật sĩ và Pharisiêu và lòng lạnh lùng của họ. Cho dù vị khách của Salomôn là nữ hoàng, bà đã đến từ phương xa không với lý do gì hơn là được tìm học sự khôn ngoan; bởi thế bà sẽ chỗi dạy để xét xử chống lại những Luật sĩ và Pharisiêu những người đã chối bỏ chân lý.
Trong cuộc phán xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với thế hệ này, và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa. (Mt. 12:42).
Ở đây Chúa tuyên bố Người còn hơn các tiên tri cả của Do Thái những người đã được dân ngoại đón nhận lắng nghe, và những người thu hút mọi nơi trên địa cầu. Những người dân ngoại tin và sẽ xét xử những người Pharisiêu vì thấy Người mà không đón nhận Tin Mừng. Nhưng không phải chỉ những người trí thức trên thế giới đứng lên xét xử chống lại những ai từ chối tin nhận Người là Đấng Cao Cả hơn Salomôn, mà cả những:
Dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa (Mt. 12:41).
Dân thành Nineveh là những người dân ngoại và nếu họ đã sám hối khi nghe lời rao giảng của Giôna, thì chẳng lẽ các Luật sĩ và những người Pharisiêu lại không ăn năn sám hối trước lời giảng của Đấng cao trọng hơn Giôna sao? Dân thành Nineveh đã không có những đặc ân như những Luật sĩ và những người Pharisiêu được nói chuyện với Thiên Chúa trong hình thể con người; cho nên chối bỏ Người là một điềm báo cho việc xét xử đang đến. Khi xin một dấu chỉ là họ tỏ ra vô luân bướng bỉnh, vì nếu Người có làm cái phép lạ mà họ đòi hỏi thì họ cũng vẫn không tin. Họ muốn có dấu lạ không phải là để hiểu thêm cho chắc chắn, nhưng là để tìm cớ luận tội Người.
Điều này khiến Người nêu lên một dấu lạ duy nhất mà Người cho họ biết, đó là dấu của tiên tri Giôna.
Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Giô-na. Quả thật, ông Giô-na đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy. (Mt. 12:39-40)
Một lần nữa bóng cây Thập Giá ngả trên các Luật sĩ và những người Pharisiêu. Trong lời nói ẩn dụ Người đã bảo họ rằng ngày thứ ba Người sẽ sống lại. Người bị đối xử giống như Giôna bị những thủy thủ đối xử, ngoại trừ là Giôna đã bị ném xuống biển, và Người bị ném vào trong mồ. Nhưng như Giôna đã thoát ra khỏi lòng biển vào ngày thứ ba để chu toàn sứ vụ rao giảng thống hối của ông, thì Người cũng sống lại để hoàn tất Sứ Vụ của Người là sai Thánh Thần của Người đến để tha thứ tội lỗi và rao giảng thống hối. Phép lạ Giôna là một dấu cho thấy ông là một tiên tri được Thiên Chúa sai đến, và nó xác nhận lời ông kêu gọi dân thành Nineveh ăn năn sám hối. Do đó, sự Sống Lại xác nhận những việc của Người. Những ai không tin nhận dấu xỉ nhục và cái chết, và sự sống lại và vinh quang thì cũng chẳng tin nhận dấu nào khác.
“Cái ở đây còn cao trọng hơn Giôna” (Mt. 12:41).
Nếu dân thành Nineveh ăn năn sám hối trước lời rao giảng của Giôna, thì tại sao họ không ăn năn sám hối khi nghe Người, Giôna giảng về Ai? Họ xin dấu để luận tội Người; Người cho họ một dấu luận tội họ. Họ muốn một dấu từ trời; Người cho họ một dấu từ lòng đất; họ muốn một dấu gây sửng sốt ngỡ ngàng; Người cho họ một dấu khuấy động lòng thống hối; họ muốn một dấu cho riêng họ; Người cho họ một dấu từ đất của dân ngoại nơi mà Tin Mừng của Người được loan đi sau khi Người Sống Lại. Ở Nazareth, khi những người trong làng có ý giết Người, Người đã cho họ hai thí dụ trong Cựu ước trích ra từ dân ngoại để cho họ thấy Tin Mừng của Người sẽ bỏ họ. Trong cuộc tranh luận này, Người đã dùng ba thí dụ từ những người dân ngoại. Nhưng vì “ơn cứu chuộc là từ người Do Thái,” như Người nói với họ, họ phải trước hết là khước từ Người rồi mới đến thế giới của dân ngoại đón nhận chân Lý và sự sống. Một lần nữa, Thánh Giá và Phục sinh vinh hiển được bày ra trưóc mắt họ như lý do để Người từ trời đến trần gian.