Những lời của Chúa được nói ra lưu loát tự do hơn khi không còn phải đắn đo vì sự có mặt của kẻ phản bội. Hơn nữa, việc Giuđa đi thực hiện kế hoạch phản bội đã đưa Thập Giá đến rất gần với Chúa. Bây giờ Người nói với các Môn đệ của Người như thể Người đang cảm thấy cây gỗ của thập giá. Nếu cái chết của Người là vinh quang, thì nó phải là điều gì đó sẽ được hoàn tất mà chưa được thể hiện ra bởi những lời giảng dạy, các phép lạ, và những việc chữa lành của Người. Suốt cuộc đời, Người đã nỗ lực bày tỏ tình yêu thương đối với nhân loại, nhưng vẫn chưa đủ cho đến khi Thân Thể của Người, như chiếc bình dầu qúi giá, bị đập bể, hương thơm tình yêu của Người lan tỏa toàn vũ trụ. Người cũng nói rằng, nơi Thập Giá của Người, Thiên Chúa Cha sẽ được tôn vinh. Được tôn vinh như thế bởi vì Cha của Người đã không nương tay với chính Con Một của Mình, nhưng đã hiến tế Người để cứu chuộc nhân loại. Người đã mặc cho Cái Chết của Người ý nghĩa mới, nghĩa là, từ Thập Giá của Người sẽ giãi chiếu tình thương và ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Bây giờ Chúa nói với các Môn Đệ trong hai cách khác nhau: thứ nhất như bậc làm cha mẹ nói với con cái trước khi chết, và thứ hai là như Chủ nói với các đầy tớ.
Hỡi các con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với chúng con một ít lâu nữa thôi. (Ga 13:33)
Ở đây Người nói trong tâm tình nghĩa thiết sâu đậm nhất đối với những người đang quây quần quanh Người, trả lời từng người về những câu hỏi ngây thơ của họ. Vì họ như những đứa trẻ còn ngây thơ trong sự hiểu biết về việc hiến tế của Người, nên Người đã dùng sự so sánh đơn giản về con đường mà lúc này họ chưa thể đặt chân tới:
“Nơi Thầy đi các con không thể đi đến đó được” (Ga 13:33)
Khi họ nhìn thấy những áng mây che khuất bóng của Người lúc Người về trời, thì đó là lúc họ sẽ biết tại sao họ không thể đi với Người được. Họ sẽ theo Người sau, nhưng trước hết họ cần phải đến trường học của đồi Can-vê và Lễ Thánh Thần Hiện Xuống. Câu hỏi của Phêrô cho thấy các Môn Đệ hiểu rất ít về cuộc Đời của Chúa:
“Thầy đi đâu vậy?” (Ga 13:36)
Ngay cả trong ý nghĩ tò mò của ông, một tính nết rất tốt của Phêrô được tỏ lộ ra, vì ông không thể nào chịu nổi khi phải xa Thầy mình. Chúa trả lời ông:
“Nơi Thầy đi, bây giờ con không đi theo được, nhưng đến một ngày con sẽ đến” (Ga 13:36)
Phêrô vẫn chưa xứng đáng để hiểu thấu đáo hơn về sự Sống Lại. Giờ của Chúa Cứu Thế đã điểm, nhưng giờ của Phêrô thì chưa. Như lúc ở trên núi Biến Hình, Phêrô đã muốn có vinh quanh mà không phải chết, thì bây giờ ông lại muốn đồng hành với Chúa trên thiên đàng mà không cần có Thập Giá. Phêrô nghĩ là câu trả lời của Chúa về việc đi theo Người là phản ảnh của lòng can đảm và trung thành. Do đó ông đã hỏi thêm, và tuyên tố quyết tâm và lòng can trường của ông:
Thưa Thầy, tại sao con lại không thể đi theo Thầy bây giờ? Con sẽ liều mạng vì Thầy (Ga 13:37)
Cảm tính của Phêrô lúc đó là dốc tâm theo Thầy; nhưng khi cơ hội đến, ông đã không có mặt ở đồi Can-vê. Liếc nhìn vào lòng của Phêrô, Chúa đã tiên báo điều sẽ xẩy ra khi cơ hội đến để đi theo Người:
"Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần.” (Ga 13:38)
Trí khôn cao vời vô cùng của Chúa đã nhìn thấy sự sa ngã của một con người mà Người gọi là Đá. Nhưng sau khi được ơn của Thần Khí Chúa, Phêrô đã đi theo Người. Ý nghĩa của điều này được thấy mô tả ở quang cảnh một huyền thoại tươi đẹp, với những hình ảnh Phêrô bay từ sự bắt bớ của Nêrô ở Rôma. Phêrô gặp Chúa trên Đường đi Appian và thưa với Người, “Thưa Thầy, Thầy đi đâu đó?” Chúa trả lời, “Ta đi đến Roma để chịu đóng đinh một lần nữa.” Phêrô đã quay trở lại Rôma, và bị đóng đinh ngay tại nơi Đền Thờ Thánh Phêrô tọa lạc ngày nay. Thánh Tâm Chúa bấy giờ đã nhìn vượt qúa Giờ đen tối đến những ngày mà Người và các Môn Đệ cùng những người kế vị họ sẽ chung hiệp với Người trong Thánh Thần. Nếu có lúc nào được tính toán sắp xếp để trí khôn không phải nghĩ đến tương lai, thì chính là giây phút ảm đạm này. Nhưng vì Người đã nói đến sự hiệp nhất giữa các Môn Đệ với Người qua bí tích Thánh Thể rồi, nên Người nhắc lại chủ đề đó một lần nữa dưới hình ảnh thân cây và các cành nho. Sự hiệp nhất liên kết Người nói đến không phải đã có ở lúc đó, vì chỉ trong vài giờ tất cả trong nhóm của họ đều bỏ Người để chạy trốn. Đúng hơn sự hiệp nhất liên kết đó sẽ được thể hiện qua sự vinh quang của Người. Hình ảnh cây nho Người dùng là một hình ảnh rất quen thuộc trong Cựu Ước. Israen được gọi là một cây nho, cây nho đó được đánh bứt ra từ Ai-cập; Isa-i-a nói Thiên Chúa đã trồng cây nho quí đó. Giêrêmia và Hosea đã kêu than oán trách là nó đã không sinh quả. Khi so sánh với mana đã được ban cho Mai-sen, Chúa xưng nhận chính Người là “Bánh Thật”; khi so sánh với ánh đèn của Lễ Lều Tạm, Người xưng Mình là “Ánh Sáng Chân Thật”; khi so sánh với đền thờ xây bằng tay con người, Người xưng Mình là “Đền Thờ của Thiên Chúa,” do đó bây giờ so sánh với cây nho của Israen, Người nói:
Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là Đấng vun trồng (Ga 15:1)
Sự hiệp nhất này giữa Người và những người theo Người thuộc về Israen mới sẽ giống như sự hiệp nhất giữa cây nho và các cành nho, nhựa cây hay ơn sủng lưu thông ra từ Người sẽ chuyển đến với họ:
Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. (Ga 15:5)
Phân cách ra khỏi với Chúa, con người không khác gì một cành cây lìa khỏi thân cây, khô khéo và chết đi. Cành có thể có nhiều hoa lá, nhưng nó không sinh trái; chỉ có liên kết với Người mới sinh trái. Khi Người đến với cái chết, Người đã nói là Người sống, và họ sẽ sống trong Người. Người đã nhìn xa hơn là Cây Thập Giá và đã xác định là sự sống và năng lực nơi họ sẽ đến từ Người, và tình liên đới giữa họ với Người là cơ khí chính hiệu, không máy móc. Người đã nhìn thấy những người tuyên xưng bề ngoài hiệp nhất với Người, nhưng trong lòng thì xa cách Người; nhiều người khác thì Người thấy là họ cần phải có sự thanh luyện thêm bởi Chúa Cha qua Thập Giá, mà Người nói qua hình ảnh một cái dao cắt tỉa cành.
Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn. (Ga 15:2)
Lý tưởng của cộng đoàn mới là sự thánh thiện, Người cầm dao cắt tỉa là Cha của Người. Đối tượng của việc cắt tỉa không phải là sửa phạt, nhưng là làm sạch và hoàn thiện hóa – trừ trường hợp những người vô dụng; họ là những người đã bị khai trừ ra khỏi thân cây nho. Khi Chúa mới gọi các Môn Đệ, Người đã cho họ biết là họ phải chịu đau khổ vì danh Người. Khi Người tiến tới Thập Giá, Người đã cho họ một hiểu biết mới về thông điệp trước đó nghĩa là họ phải vác Thập Giá hàng ngày để đi theo Người. Sự liên kết hiệp nhất với Người đến không phải chỉ đơn giản bằng việc biết về giáo huấn của Người, nhưng căn bản là làm cho sự hiện diện của Thiên Chúa nên phong phú ở trong họ qua việc cắt tỉa tất cả những cái không thuộc về Thiên Chúa:
Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. (Ga 15:6)
Một trong những kết quả của việc tự chủ để làm tăng hiệu hóa sự liên kết hiệp nhất này giữa họ với Người là sự hoan lạc. Việc từ bỏ mình không gây buồn phiền, nhưng là hạnh phúc.
Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn. (Ga 15:11)
Người nói về niềm vui, chỉ trong vài giờ nữa là đến lúc cho cái hôn của Giuđa; nhưng niềm vui Người bày tỏ không phải là vì sự đau khổ, nhưng đúng hơn là niềm vui về việc hoàn toàn quyết tâm qui phục trong tình yêu đối với Chúa Cha vì nhân loại. Cũng giống như thứ niềm vui trao tặng người bạn một món qùa qúi, thì cũng có một thứ niềm vui trong việc hiến tặng mạng sống cho nhân loại. Niềm vui tự hiến mà Chúa hứa ban cho họ, nếu họ tuân giữ những huấn lệnh của Người như là huấn lệnh của Cha Người. Những người môn đệ không được vui, họ thấy giấc mộng đất nước trần thế tan vỡ, và đã không thể hiểu được lời Người nói về niềm vui; chỉ sau này khi Thần Khí đến trên họ thì họ mới hiểu. Ngay sau khi Lễ Thánh Thần hiện xuống, như khi họ ở trước mặt cùng hội đồng đã kết án Đức Kitô, lòng họ cũng sẽ vui, vì như những cành cây đã được tỉa xén để nên một với thân Nho:
Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su. (TĐCV 5:41)
Cùng với niềm vui, thêm một hiệu lực nữa trong tình liên hiệp với Người là tình yêu.
Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. (Ga 15:13)
Tình yêu là liên hệ bình thường của các cành với nhau, vì tất cả đều cắm rễ trong thân cây nho. Tình yêu của Chúa không có giới hạn. Có lần Phêrô đã đặt giới hạn cho tình yêu khi ông hỏi Chúa là ông phải tha thứ bao nhiêu lần. Có phải bảy lần không? Chúa đã trả lời với ông là bảy mươi lần bảy, ngụ ý là không có giới hạn và không chấp nhận bất cứ tính toán nào. Tình yêu của họ dành cho nhau sẽ không có giới hạn, vì họ phải hỏi chính mình, Tình Yêu của Người có giới hạn không? Người không đặt giới hạn, vì Người đến để hiến mạng sống của Người.
Ở đây Người lại nói đến mục đích của Người đế trần gian, đó là để Cứu Chuộc. Thập Giá là quan trọng nhất. Tính tự nguyện được nhấn mạnh khi Người nói là không ai lấy mạng của Người, mà là chính Người tự hiến Mạng Sống của mình. Tình yêu của Người giống như năng lượng của mặt trời: Những ai ở gần mặt trời thì sẽ nồng ấm và hạnh phúc; những ai xa mặt trời nhất thì vẫn nhận thấy ánh sáng của nó.
Chỉ qua cái chết cho người khác Người mới có thể bày tỏ tình yêu. Cái chết của Người không giống như cái chết của một người vì yêu một người khác, hay như một binh sĩ chết cho tổ quốc của họ, vì một người chết để cứu những người khác thì họ phải chết đi. Cho dù là một hy sinh lớn, nó vẫn là một cái giá không cân xứng để trả tất cả cái nợ phải trả. Trong trường hợp của Chúa Cứu Thế, Người không cần phải chết. Không ai có thể lấy mạng sống của Người đi cả. Dù Người gọi những người Người chết cho họ là bạn của Người, tình bạn đó hoàn toàn ở phía Người chứ không phải là ở phía chúng ta, vì là những người có tội, chúng ta thuộc hạng là kẻ thù. Gioan sau này nói rất hay khi cho rằng Người đã chết vì chúng ta trong khi chúng ta vẫn còn là những người tội lỗi.
Những người tội lỗi có thể bày tỏ tình yêu của họ cho nhau bằng cách chịu nhận hình phạt thay cho người đáng phải chịu phạt. Nhưng Chúa không những nhận lấy hình phạt thay cho chúng ta nhưng cũng nhận lấy tội của chúng ta như là của chính Người. Thêm nữa, cái chết mà Người sắp đón nhận rất khác với cái chết của các vị tử đạo về chính nguyên do của Người, bởi các vị tử đạo làm theo gương của Người và mong đợi vinh quang được Người hứa ban. Nhưng chết trên Thập Giá mà không có ai thương cảm, bị bao vây bởi đám đông chế nhạo Người, và chết mà không đòi buộc Người phải chết – đó là cao điểm của tình yêu. Các môn đệ không thể hiểu được tình yêu sâu thẳm đó, nhưng sau này họ hiểu. Phêrô, trước đó chẳng hiểu gì về tình yêu dâng hiến, sau này khi thấy đoàn chiên của mình bị chết bởi sự bắt bớ của người Roma mới nói với họ:
Thật vậy, chấp nhận những nỗi khổ phải chịu một cách bất công vì lòng tôn kính Thiên Chúa, thì đó là một ân huệ. Vì nếu có tội mà anh em bị đánh đập và đành chịu, thì nào có vẻ vang gì? Nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban. Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế. Thật vậy, Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. (1Pher 2:19-21)
Gioan, cũng vậy, tóm tắt điều ông đã nghe đêm hôm đó, khi ông dựa vào ngực Đức Kitô:
Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. (1 Gio 3:16)
Sau lời giáo huấn về sự hiệp nhất giữa các Môn Đệ với Người, Chúa chuyển qua vấn đề tiếp theo là sự phân cách giữa họ với những người không sống theo Thần Khí và Sự Sống của Người. Người không chỉ có ý nói đến tình trạng hay sự chống đối xẩy ra giữa những người theo Người và thế gian ngay sau những ngày Người vừa rời khỏi thế gian. Sự trái nghịch là giữa những người không tái sinh và không tin, những người khước từ Người, với những người liên kết với Người như các cành nho với cây nho. Thế gian mà Người nói đến không phải là vũ trụ vật lý hay bầu khí quyển nhưng đúng hơn là tinh thần thế gian, một Zeitgeist (hệ tư tưởng) một liên hiệp của các lực lượng xấu xa chống lại những lực lượng tốt lành. Những Mối Phúc đã đặt Người đối nghịch ngay với thế gian, và do đó chuẩn bị cho Thập Giá của Người. Bây giờ Người cảnh báo cho họ biết là họ cũng có một Thập Giá, nếu họ thực sự là môn đệ của Người. Không có Thập Giá e rằng sẽ thiếu nhãn hiệu thuộc hàng môn đệ của Người.
Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em. (Ga 15:18-19)
Bảy lần trong bài giáo huấn của Người về thế gian, Người đã dùng chữ “ghét” – một lời chứng nghiêm trọng đối với quyết tâm và sự thù nghịch của nó. Thế gian yêu những gì thuộc về thế gian; nhưng để duy trì các luật lệ, việc làm, và những lối suy nghĩ của nó, nó phải ghét những cái không thuộc về thế gian hay là những cái thuộc về Thiên Chúa. Hãy để các môn đệ hay bất cứ môn đệ nào của Người gia nhập tôn giáo của mặt trời hay một đạo nào của Đông phương; thử hỏi xem chúng có ghét họ nữa không? Đúng vậy, vì Ta đã gọi các ngươi ra khỏi thế gian.” Lúc đó, các môn đệ không thể hiểu được sự thù ghét này; ngay cả sau khi Người Sống Lại họ cũng vẫn chưa bị bách hại và vẫn còn được quay trở về với chài lưới và con thuyền. Nhưng khi Người lên trời và gởi Thánh Thần đến, họ sẽ cảm nghiệm thấy đầy sự thù ghét của thế gian. Giacôbê, đã nghe những lời này trong bữa Tiệc Ly, và sau này nhắc lại trong hiểu biết và cảm nghiệm:
Hỡi những kẻ ngoại tình, các người không biết rằng: yêu thế gian là ghét Thiên Chúa sao? Vậy ai muốn là bạn của thế gian thì tự coi mình là thù địch của Thiên Chúa. (Giacôbê 4:4)
Gioan cũng vậy, đã nhắc nhở giáo đoàn của người là thế gian không thích hợp với Đức Kitô:
Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha (1 Gio 2:15)
Chúa giải thích là thế gian sẽ không thù ghét họ như nó đã thù ghét Người, nhưng lý do nó ghét họ là vì Người. Tôi tớ không hơn Chủ; họ sẽ bị bắt bớ vì danh của Người:
Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy. (Ga 15:21)
Chúa không cho dấu hy vọng là sẽ cải hóa tất cả mọi người ở thế gian; quần chúng sẽ để thần khí của thế gian chiếm giữ lòng họ nhiều hơn là Người. Chia sẻ sự sống của Người là chia sẻ số phận của Người. Thế gian sẽ thù ghét các môn đệ của Người, không phải vì sự xấu xa trong đời sống của họ, nhưng vì không có sự xấu xa hay đúng hơn là vì có sự tốt lành nơi họ. Sự tốt lành không gây nên thù ghét, nhưng nó làm cớ cho sự thù ghét tỏ lộ chính nó ra. Một đời sống càng thánh thiện và trong sạch hơn bao nhiêu, thì lại càng lôi kéo thêm sự hận thù và ghen ghét của thế gian bấy nhiêu. Chỉ có loại người tầm thường là sống sót. Những người hoàn hảo vô tội phải bị đóng đinh ở thế gian nơi vẫn còn sự dữ. Như con mắt bị đau không thấy ánh sáng, thì lương tâm xấu xa cũng không thấy sự tốt lành cắn rứt nó. Sự thù ghét của thế gian không phải là ngây thơ vô tội:
Giả như Thầy không đến và không nói với họ, họ đã chẳng có tội. Nhưng bây giờ, họ không thể chữa tội được. Ai ghét Thầy, thì cũng ghét Cha Thầy. Giả như Thầy không làm giữa họ những việc không một ai khác đã làm, họ đã không có tội. Nhưng nay họ thấy rồi mà vẫn ghét cả Thầy lẫn Cha Thầy. (Ga 15:22-25)
Sự ghét bỏ của họ đối với Người chứng tỏ là họ ghét bỏ Chúa Cha. Sự dữ không có thủ phủ của riêng nó, sự dữ chỉ là loại “tầm gởi” ăn bám vào sự tốt lành. Sự thù ghét hút mạch máu của nó từ việc giao tiếp với sự tốt lành; điều này làm cho hỏa ngục khởi đầu ở thế gian, nhưng nó không kết thúc ở đó. Chúa nói Tin Mừng của Người một đàng làm cho tội lỗi của con người nên trầm trọng hơn vì họ cố tình phủ nhận nó. Tội lỗi và sự dữ đã có mặt trên trần gian trong suốt qúa trình lịch sử; Cain đã giết em là Aben, Dân Ngoại bắt bớ người Do Thái, Sao-lê tìm ám hại David, nhưng Chúa nói, tất cả những việc ác độc ấy chẳng là gì so với sự độc ác người ta dành cho Người. Người đã dạy rằng, sẽ có nhiều hình phạt dành cho những kẻ hư đi; bây giờ Người nói thêm là mức độ hình phạt sẽ được định đoạt tùy theo mức độ xúc phạm của họ đối với sự sáng. Việc Người đến là đem lại một tiêu chuẩn mới cho việc lượng định ở trần gian. Sẽ có nhiều nhân nhượng hơn đối với thành Sodoma và Gomorrah trong Ngày Phán Xét hơn là đối với Ca-phar-na-um, bởi vì nó quay lưng lại đối với Vua muôn vua và Chúa của các chúa.
Tinh thần thù nghịch chống lại Người không phải là chỉ khi Người còn sống ở trần gian, hay ở thời các Tông đồ, nhưng bao lâu thời gian còn kéo dài thì sự thù ghét vẫn còn. Khi Alexander chết, không ai giơ nắm tay lên tỏ ra tức tối nơi mồ của ông; sự thù ghét đối với những người độc ác tàn lụi đi với họ. Chẳng ai ghét Đức Phật; vì Phật chết rồi. Nhưng sự thù ghét đối với Chúa vẫn tiếp tục, bởi vì Người vẫn sống – “giống như hôm qua, hôm nay và mãi mãi.” Khi được báo động tức là phải chuẩn bị vũ khí.
Họ sẽ khai trừ anh em khỏi hội đường. Hơn nữa, sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa. (Ga 16:2)
Từ những chỉ trích thiếu tình thương cảm, người ta còn giết cả những người theo Người. Và họ làm như thế và tin là họ hành xử theo đạo lý, như những Luật sĩ và Pharisiêu đã làm, và như Phaolô đã làm trước khi trở lại. Điều mà Người tiên báo cho các môn đệ đã xẩy ra: Mat-thêu bị tử đạo dưới luỡi kiếm của người Ethiopia; Marcô bị kéo lôi ngoài đường phố ở Alexandria cho đến chết; Luca bị treo cổ trên cây ô liu ở Hy-Lạp; Phêrô bị đóng đinh ngược đầu ở Roma; Giacôbê một bị chém đầu ở Giêrusalem; Giacôbê hai bị quăng từ đỉnh đền thờ xuống và bị hành hung cho đến chết; Philiphê bị trói treo ngược cây cột ở Phrygia; Bartôlômêô bị lột da; Anrê bị trói vào thập giá, và người đã tiếp tục giảng dạy những người hành hạ người cho đến khi tắt thở; Tôma đã bị đâm chết; Jude đã bị tên bắn nát thây cho đến chết. Mathia đã bị ném đá và chém đầu. Rất có thể khi những điều này xẩy ra, họ đã nhớ đến lời của Chúa nói trong Bữa Tiệc Ly:
Nhưng Thầy đã nói với anh em những điều ấy, để khi đến giờ họ hành động, anh em nhớ lại là Thầy đã nói với anh em rồi. (Ga 16:4)
Lời khuyên dặn Người dành cho các môn đệ là Thập Giá đang chờ đón họ đã là chứng cớ nói lên rằng Thập Giá thật tối quan trọng nơi Người. Người cam kết là các môn đệ của Người cũng không tránh khỏi đau khổ, nhưng Người hứa sự chiến thắng dành cho họ:
Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian. (Ga 16:33)
Niềm hoan lạc bình an là hoa trái của việc trung thành chịu đựng trong thử thách. Bình an trong linh hồn, và nó đến từ sự hiệp nhất với Người, mặc dù thân xác có thể cảm thấy bị đau đớn. Các thử thách, đau khổ, phiền não được cho phép xẩy ra bởi Đấng ban sự bình an.
Một vấn đề khác mà Chúa Cứu Thế quan tâm nói đến trong đêm chịu nạn của Người là Thánh Thần. Tiên tri Ezêkien đã tiên báo là Thần Khí mới sẽ được ban cho thế giới:
Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành. (Ezêkiên 36:26-27)
Thân xác của Adam đã được tạo dựng khi Thiên Chúa thổi thần khí sự sống vào ông. Nhà tạm và đền thờ của Israen phải được xây dựng trước khi sự hiện diện (Shekinah) và vinh quang của Thiên Chúa đến ngự ở đó; bởi thế cần phải có sự đổi mớí từ nội tâm con người như điều kiện để Thần Khí của Thiên Chúa đến ngự. Với việc đến của Đức Kitô, lời của tiên tri Ezêkien bắt đầu ứng nghiệm. Thần Khí đã đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống của Người. Gioan Tẩy Giả tiên báo hai điều về Đức Kitô: thứ nhất, Người là Chiên Thiên Chúa và sẽ gánh lấy tội của trần gian; thứ hai, Người sẽ làm phép rửa cho các môn đệ của Người bằng Thánh Thần và lửa. Việc đổ máu là cho những người tội lỗi; ơn Thần Khí là cho những người tin theo Người trong tinh thần vâng lời và yêu thương. Khi Chúa chịu phép rửa ở sông Giođan, Thánh Thần đã ngự xuống trên Người. Người nhận phép rửa trong Thánh Thần; nhưng Người phải chịu đau khổ trước khi Thần Khí đến trên những người khác. Đó là lý do tại sao, vào đêm khi cuộc Thương Khó của Người bắt đầu, Người đã trịnh trọng nói về Thần Khí. Trong cuộc đàm thoại với người phụ nữ bên bờ giếng, Người nói đã đến lúc khi những người tôn thờ đích thực sẽ tôn thờ:
Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật. (Ga 4:23)
Lời Người nói “trong Thần Khí” không có nghĩa trái nghịch giữa nội tâm hay tôn giáo của cảm tình nghịch lại với những cách tuân giữ ở bề ngoài, nhưng đúng hơn là trái nghịch giữa việc thờ phượng được khơi động bởi Thần Khí của Thiên Chúa ngược lại với thần khí hoàn toàn tự nhiên thuộc con người. “Trong chân lý” không có nghĩa là “chân thành và thật thà,” nhưng đúng hơn là trong Đức Kitô, đấng là Ngôi Lời và là Sự Thật của Thiên Chúa. Sau này, khi Chúa hứa trao ban Mình và Máu của Người dưới hình dạng bánh và rượu, Người có ý nói rằng trước hết Người phải lên trời đã rồi mới sai Thánh Thần đến.
Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống. (Ga 6:63-64)
Người bắt đầu bằng việc nói với họ rằng cái chết của người sẽ xẩy đến ngày hôm sau; họ sẽ không còn trông thấy Người với con mắt xác phàm nữa. Thêm ít lâu nữa, nghĩa là, thời gian giữa cái chết và việc Sống Lại của Người khi họ sẽ nhìn thấy Người trong vinh quang với con mắt phàm trần của họ. Người trấn an họ rằng, sự vắng bóng của Người là một phúc lợi lớn cho họ hơn là sự hiện diện của Người trong thân xác. Các Môn Đệ đã không thể hiểu điều Người nói với họ về khoảng thời gian ít lâu xa cách giữa cái chết và việc sống lại của Người, khoảng thời gian mà mắt của họ bị che mờ đi.
"Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy." (Ga 16:16)
Bây giờ Người hạ xuống cùng cấp độ hiểu biết của các môn đệ, vì quan tâm chính của họ là điều gì sẽ xẩy ra cho Người. Nhưng chỉ trong hai giờ đồng hồ nữa họ sẽ hiểu hơn về những lời này của Người, vì trong khoảng khắc thời gian đó các Môn Đệ sẽ tạm thời không thấy Thầy của họ, sau khi Người bị bắt. Vì Chúa đã nói rằng Người sẽ đi về cùng Cha, các Môn Đệ rất bối rối, vì như thế có nghĩa là Người sẽ không còn ở với họ nữa; họ nói:
Chúng ta chẳng hiểu Người nói gì! (Ga 16:18)
Người biết là họ nóng lòng muốn hỏi Người thêm về điều này. Sự buồn sầu và ngỡ ngàng của họ không phải chỉ vì Người nói là Người sắp sửa rời xa họ, nhưng cũng còn vì sự thất vọng của họ, vì họ đã mong đợi việc thành lập một tổ chức chính trị trần thế của Đấng Thiên Sai. Người an ủi họ là trong lúc họ đang lo buồn, khoảng thời gian này chỉ rất ngắn ngủi, chỉ kéo dài đủ để chứng minh uy quyền của Người có trên sự chết và đi về cùng Cha của Người. Khi Người đi vào Giờ đó, họ sẽ lo buồn, trong khi những kẻ thù nghịch của Người hay là thế gian sẽ vui mừng. Thế gian sẽ tin rằng nó đã vĩnh viễn hạ được Người. Nỗi lo buồn của những người Người tuyển chọn, tuy thế, chỉ là sự chuyển tiếp, vì Thập Giá phải đến trước khi có triều thiên.
Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui. (Ga 16:20)
Hành trình từ lo buồn đến niềm vui được biểu hiện bằng so sánh của sự đau đớn và hạnh phúc của bà mẹ sinh con:
Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian. Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được. (Ga 16:21-22)
Sự quan phòng đã khôn ngoan sắp xếp cái đau đớn căng thẳng của bà mẹ được đền bù bởi niềm vui hạnh phúc nơi đứa con của bà. Do đó, cái đau đớn căng thẳng của Thập Giá là sự chuẩn bị cho niềm vui hạnh phúc Phục sinh. Phải có đồng lao cộng khổ với Người trước khi có sự chung hưởng hạnh phúc vinh quang với Người. Lúc này, họ lo buồn vì họ không còn thấy Người trong thân xác, nhưng niềm vui của họ sẽ đến rất mau trong tinh thần, và niềm vui đó sẽ là niềm vui vĩnh viễn mà thế gian không thể lấy đi được.
Bản chất của niềm vui khôn tả này sẽ thuộc về họ, Chúa Cứu Thế giải thích trong vai trò của Đấng Yên Ủi hay là Chúa Thánh Thần đấng Người sẽ phái đến.
Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. (Ga 14:16-20)
Sẽ có Đấng Yên Ủi khác, hay “Một Đấng Khác làm bạn với họ.” “Đấng Khác” không có nghĩa phẩm tính, nhưng đúng hơn là một sự phân biệt về ngôi vị. Người đã là Đấng Yên Ủi của họ; Người đã ở bên họ; Người đã cùng là Một với họ và trong sự Hiện Diện của Người họ đã lấy được sức mạnh và can đảm; nhưng sự lo buồn của họ là Người đi khỏi. Người đã hứa cho họ một Đấng Yên Ủi hay Bảo Trợ khác. Như Người sẽ là Đấng Bảo Trợ cùng với Thiên Chúa ở trên trời, thì Thánh Thần ở trong họ sẽ bầu cử với Thiên Chúa và là Đấng Bảo Trợ cho họ ở trần gian. Bí mật thiêng liêng mà Người ban cho họ là việc mất mát của họ bây giờ sẽ thành phúc lợi lớn hơn bởi việc Thần Khí của Thiên Chúa đến với họ. Chúa Cha đã tỏ lộ hai thông điệp của chính Người: Người Con là hình ảnh của chính Người bước đi giữa nhân loại, nhắc cho họ về nguồn gốc từ Thiên Chúa và cũng là Mô Phạm để họ được phục hồi. Trong Thần Khí, Chúa Cha và Chúa Con sẽ phái Quyền Năng của Thiên Chúa đến, Đấng sẽ ở trong họ và làm cho thân xác họ thành một đền thờ.
Tốt hơn là Người ra đi, vì việc Người trở về cùng Chúa Cha chính là điều kiện để Thánh Thần đến. Nếu Người tiếp tục ở lại với họ, Người sẽ chỉ là một mẫu gương để họ học noi theo; nếu Người đi và phái Thần Khí đến, Người sẽ sẽ là chính sự sống để họ sống.
Việc trở về của thân xác Người trong vinh quang trên trời là điều cần thiết tiên khởi đối với sứ vụ của Thần Khí Chúa. Sự ra đi của Người không phải là một mất mát nhưng là một phúc lợi. Như sự sa ngã của con người đầu tiên đã là sự sa ngã của tất cả các con cháu, thì việc lên trời của Con Người sẽ là sự lên trời của tất cả những người được nối kết với Người. Cái chết đền bù của Người là điều kiện để đón nhận Thần Khí của Thiên Chúa. Nếu Người không đi khỏi, nghĩa là, trừ khi Người chết đi, thì chẳng hoàn thành được gì cả; những người Do Thái vẫn là người Do Thái như cũ, những người dân ngoại vẫn ở lại trong sự mù tối, và tất cả mọi người vẫn ở dưới ách thống trị của tội lỗi và sự chết. Sự hiện diện thể lý phải được lấy đi để sự hiện diện tinh thần có thể xuất hiện. Sự tiếp tục hiện diện thể lý của Người ở trần gian nghĩa là Người sẽ chỉ giới hạn ở địa phương; việc Thánh Thần đến có nghĩa là Người có thể ở giữa tất cả những người liên kết với Người.
Việc Thánh Thần ở trong họ có ý nghĩa nhiều hơn là sự hiện diện thể lý của Người ở giữa họ. Bao lâu Chúa còn lưu lại với họ ở trần gian, ảnh hưởng của Người chỉ từ bên ngoài chứ không từ bên trong; nhưng khi Người phái Thánh Thần đến, ảnh hưởng của Người sẽ chiếu tỏa từ trong ra; những ai có ảnh hưởng đó là có Thần Khí của Đức Giêsu Kitô ở trần gian.
Có hai chiều kích vinh quang của Người: một chiều kích vinh quang bởi Chúa Cha; và một chiều kích vinh quang bởi Chúa Thánh Thần; một loại vinh quang sẽ có ở trên trời, và một vinh quang ở trần gian. Một đàng Người được vinh quang nơi Thiên Chúa, và một đàng, Người được vinh quang nơi tất cả những người tin vào Người:
Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. (Ga 16:14-15)
Người sẽ được tôn vinh khi nhân tính của Người được ngồi bên hữu Chúa Cha. Nhưng vinh quang tinh thần ở trên trời này không thể thực sự hiểu được trừ khi Người phái Thánh Thần đến để tỏ cho thấy sự vinh quang của Đức Kitô ở nơi họ bằng việc sống và hành động trong họ. Mặc dù họ biết Đức Kitô trong thân xác, bây giờ họ được báo cho biết là họ sẽ không biết Người như thế nữa.
Vâng lời được trình bày như điều kiện cần thiết để đón nhận Thánh Thần:
Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. (Ga 14:15-16)
Thánh Thần ngự trên Đức Kitô ở sông Jordan sau ba mươi năm Người vâng lệnh Chúa Cha và cha nuôi của Người là Thánh Giuse và Mẹ của Người. Hành động vâng lời thứ hai của Người là chấp nhận theo lệnh của Chúa Cha để vác Thập Giá đáp lại đòi buộc của Thiên triều. Chỉ sau khi vâng lời thì Thánh Thần mới được ban cho các Môn Đệ. Như Người đã phái Thánh Thần bởi vì sự vâng lời của Người đối với Chúa Cha, thì những người tin vào Người cũng nhận Thánh Thần qua việc vâng lời Người. Thiên Chúa ngự nơi đền thờ Giêrusalem bởi vì họ đã vâng theo chỉ thị của Người để xây dựng nó. Trong hai chương cuối của sách Xuất Hành, mười tám lần được trình bày là tất cả được hoàn thành như lời Thiên Chúa đã truyền dạy. Do đó bây giờ Chúa chuẩn bị để biến thân con người nên đền thờ của Chúa Thánh Thần, Người cũng đặt điều kiện giống như vậy, nghĩa là họ phải vâng theo lệnh truyền của Người.
Chính Phêrô đã nói điều này ngay sau ngày lễ Thánh Thần Hiện Xuống:
Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy đang nghe. (TĐCV 2:33)
Rồi Người giải thích thêm là Thánh Thần sẽ dạy cho họ những chân lý mới nhờ việc nhớ lại những chân lý cũ, và sẽ nhớ lại những chân lý cũ trong việc dạy những chân lý mới. Đức Kitô đã truyền thông mầm mống cơ bản của chân lý, nhưng chưa phải là trong sự toàn vẹn của nó. Khi Người phái Thần Khí đến, sẽ có sự tươi mát mới đặc biệt trong trí nhớ và một thâm tín về chân lý vượt trên tất cả những kiến thức đã có trước.
Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em. (Ga 14:26)
Như ánh đèn tỏa sáng nơi Cựu ước qua việc đến của Đức Kitô, thì ánh sáng cũng chiếu tỏa nơi đời sống của Đức Kitô qua Thánh Thần. Vai trò tăng sức của Thánh Thần được mang đến ngay trong nối kết với vai trò soi sáng của Đức Kitô là Thầy dạy. Những người chủ trương trở về với quan niệm thuần Tin Mừng quên rằng Chúa của Tinh Mừng, là Đức Kitô, đã nói về việc phát triển, việc biến hóa, việc khai mở Chân Lý của Người qua các Tông Đồ. Như Con đã tỏ cho biết về Cha, Thánh Thần cũng tỏ cho biết về Người Con; như Con đã vinh danh Cha, thì Thánh Thần cũng vinh danh Đức Kitô. Thực sự chỉ sau khi Sống Lại và Thánh Thần ngự đến các Tông Đồ mới nhớ những điều Người đã nói với họ, và hiểu ra được ý nghĩa của Thập Giá và Ơn Cứu Chuộc.
Có hai cây trong vườn Địa Đàng: Cây Sự Sống Thiên Chúa và cây biết lành biết dữ. Kế hoạch của Thiên Chúa cho con người là ở lại với Người qua sự hiệp nhất với Cây Sự Sống mà họ nên dùng và do đó được sống muôn đời. Satan đã hứa với con người là con đường dẫn đến an bình là qua cây biết lành biết dữ. Nhưng con người quên rằng khi sự dữ ở trong họ, nó bắt đầu chiếm giữ họ. Bởi con đường sai lạc của việc biết lành biết dữ, con người bị dẫn tới diệt vong. Bây giờ Cây Sự Sống được dựng lên ở đồi Can-vê và lại trao ban cho con người. Cây Sự Sống trở nên cây không phải là biết lành biết dữ, nhưng là cây của Sự Thật qua Thánh Thần.
Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. (Ga 16:13)
Người nói là Thần Khí của Sự Thật đến từ Chúa Cha và Chính Người làm cho sự thật đi vào linh hồn khiến cho nó nên hiện thực. Sự thật tự nhiên chỉ ở mặt nổi của linh hồn, nhưng Sự Thật của Thiên Chúa ở trong thẩm cung. Để biết Chúa Cha thì người ta phải biết Chúa Con; để biết Chúa Con, người ta phải có Thánh Thần, vì Thánh Thần sẽ tỏ Chúa Con Đấng đã nói:
Ta là Sự Thật. (Ga 14:6)
Nếu toàn thể nhân loại chỉ cần một người thầy dạy dỗ, con người đã thánh thiện từ lâu rồi, vì họ đã có rất nhiều người làm thầy từ những nhà hiền triết Ấn Độ cho đến bây giờ. Nhưng nó đòi hỏi nhiều hơn là chỉ có tinh thần tự nhiên nhân loại để cho một người thành thánh nhân, hay để biết được sự thật; nó đòi phải có Thánh Thần của Sự Thật. Các sự thật thuộc nhân loại được nhận biết chỉ bởi sống những sự thật đó ra, còn Sự Thật của Thiên Chúa chỉ có thể sống nhờ bởi sống trong Thánh Thần.
Trong lời hứa ban Thánh Thần của Người, Chúa đã quả quyết bốn sự thật liên quan đến Người. Thứ nhất, Người nói Người “đã đến từ Chúa Cha.” Nói cách khác, Người đã có từ muôn đời như Ngôi Lời hay là Con Thiên Chúa. Thứ hai, Người nói, “Ta đến thế gian,” có nghĩa là việc Nhập Thể của Người và mặc khải Người là Thiên Chúa đối với con người. Thứ ba, “Thầy rời bỏ thế gian,” có nghĩa là thế gian chối bỏ Người, bởi những nhục hình, khổ nạn, và cái chết của Người. Bây giờ Người nói với các Môn Đệ của Người, “Thầy đi về cùng Cha,” nghĩa là sự Sống Lại từ cõi chết, Lên Trời với Chúa Cha trong vinh quang của Người và việc Thần Khí của Người đến. Ảnh hưởng gì có trên những sự thật này đối với thế gian bây giờ Người bắt đầu giải thích thêm.
Khi Người đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử: về tội lỗi: vì chúng không tin vào Thầy; về sự công chính: vì Thầy đến cùng Chúa Cha, và anh em không còn thấy Thầy nữa; về việc xét xử: vì Thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử rồi. (Ga 16:8-11)
Đây là sự trình bày về ba chiến thắng mà Thánh Thần chiếm được từ thế gian qua các Môn Đệ – một sự chiến thắng không phải là thể lý nhưng là chiến thắng luân lý. Một đàng, là Sự Thật thuộc Thiên Chúa, một đàng là tinh thần lầm lạc của thế gian. Sứ vụ của Thần Khí là xét xử và chứng minh sự sai lầm của thế gian trong ba lãnh vực: quan niệm của thế gian về tội lỗi, quan niệm của thế gian về sự chính trực, quan niệm của thế gian về việc xét xử.
Khi Người đến, Người sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử (Ga 16:9)
Việc xét xử trước tiên của Thần Khí hay việc chứng minh sự thật đó là con người đầy tội lỗi. Tội lỗi không bao giờ được hiểu đầy đủ trong lãnh vực lề luật bị lỗi phạm; sự dữ được phơi bày ra khi nó bị nhìn thấy điều nó gây ra cho người đáng được yêu. Sự vô tín gây ra việc Đóng Đinh chính là tội lỗi trong bản chất của nó. Tội lỗi, trong ý nghĩa đầy đủ của nó, là chối bỏ Đức Kitô. Cách bình thường để chiến thắng con người đối với sự thật là thu hút họ bằng một số lôi cuốn hấp dẫn. Nhưng Thần Khí sẽ chiến thắng con người đối với sự thật bằng cách thuyết phục họ về tội lỗi đầy tràn của họ; làm như thế, sẽ tỏ bày sự thật trước hết Đức Kitô là Đấng Chuộc Tội hay Đấng Giải Thoát khỏi tội lỗi.
Việc của Thần Khí là lên án thế gian về tội lỗi trong quan điểm khác của nó, bởi vì nó không tin vào Người. Bởi vô tín, hay bởi không đón nhận sự giải thoát khỏi tội lỗi mà Đức Kitô mang lại, chủ trương chống lại Thiên Chúa được xác định. Sự vô tín của con người tỏ ra đối với Người sẽ vạch trần tội lỗi ra khỏi nơi lẩn trốn của nó. Không gì ngoài Thần Khí có thể thuyết phục con người về tội lỗi; lương tâm không thể làm chuyện đó, vì nó có thể đôi khi bị thiêu rụi; công luận không thể làm chuyện đó vì đôi khi nó về hùa chấp nhận tội lỗi; tội trầm trọng nhất mà Thần Khí vạch trần ra không phải là vô điều độ, tính tham lam hay mê tà dâm, nhưng là tội không tin vào Đức Kitô. Cũng chính Thần Khí này của Thiên Chúa hoàn trả lại cho người tội lỗi không phải chỉ là việc nhận thức tinh trạng tội lỗi của họ, nhưng cả lòng thống hối ăn năn, khi họ đón nhận ơn Cứu Chuộc.
Chối bỏ Đấng Cứu Chuộc nghĩa là yêu thích sự dữ hơn sự lành. Biến cố của việc đóng đinh là một tự thuật trong đó con người có thể đọc câu truyện của chính đời họ, một là về ơn cứu rỗi của chính họ, hay là hình phạt của chính họ. Bao lâu tội lỗi được coi là chỉ thuộc quan điểm tâm lý, thì Thập Giá của Đức Kitô được coi như một thêu dệt thổi phồng qúa độ. Cát ngoài sa mạc, máu của thú vật, hay nước cũng có thể rửa sạch cho con người. Nhưng một khi tội lỗi được nhìn dưới quan điểm của Đấng Thánh Thiện Muôn Đời, thì chỉ duy Thập Giá của Đức Kitô mới có thể cân bằng và đền bù được sự kinh hoàng đáng sợ này.
Việc lên án thứ hai của Thần Khí là sự công chính.
Về sự công chính: vì Thầy đến cùng Chúa Cha, và anh em không còn thấy Thầy nữa (Ga 16:10)
Thoạt đầu có vẻ như xa lạ để Đức Kitô có thể nói rằng việc Lên Trời về với Chúa Cha của Người lại có liên quan đến sự công chính trong lòng. Nhưng ở đây Người nói thêm vào điều Người đã nói về tội lỗi. Như thế gian đôi khi quan niệm về tội lỗi chỉ trong những việc làm lỗi phạm đến lề luật chứ không phải trong sự vô tín, do đó nó thường coi sự công chính trong những hành động từ thiện bác ái chứ không ở trong sự bảo hộ bào chữa mà con người nhận được từ bên tay hữu của Chúa Cha qua Đức Kitô. Khi Chúa của chúng ta lên trời, Thần khí sẽ tỏ cho thấy thế gian sai lầm ra sao khi nó coi Người như một tội phạm và như một kẻ bất lương. Việc Lên Trời đã đảo lộn tất cả các tiêu chuẩn của quan điểm thế gian về sự đúng sai. Sự thật là Chúa Cha tôn vinh Người bên hữu chứng minh rằng tất cả những cáo buộc về Người đều sai lầm. Chính thế gian mới là không công chính trong việc chối bỏ Người.
Khi một người nhìn nhận tội lỗi của mình, họ không thể nghĩ mình công chính; khi một người tin là Đức Kitô đã cứu họ khỏi tội lỗi, thì họ tin rằng Đức Kitô là sự công chính của họ. Nhưng một người không thể nói về sự công chính với người không phải là người tội lỗi. Người Pharisiêu ở đền thờ đã nghĩ về sự công chính của họ; những người lãnh đạo ở đền thờ đã quyết định giết Người cũng đã nghĩ họ là người công chính. Ngày Thứ Sáu Thánh dường như áp đặt tội lỗi cho Đức Kitô và sự công chính cho những người xét xử Người, nhưng Ngày Lễ Thánh Thần Hiện Xuống lại xếp sự công chính nơi Đấng Bị Đóng Đinh và tội lỗi cho những người xét xử người. Đối với những người chối bỏ Người, sự công chính, đến một ngày sẽ xuất hiện như sự công thẳng đáng sợ; đối với những người tội lỗi mà biết đón nhận Người và liên kết chính họ với sự sống của Người, sự công chính sẽ xuất hiện như lòng thương xót.
Về việc xét xử: vì hoàng tử của thế gian này đã bị xét xử rồi. (Ga 16:11)
Việc lên án cuối cùng trong ba án lệnh là việc xét xử. Khi tội lỗi và sự công chính chạm trán với nhau, thì sẽ có việc xét xử mà ở đó tội lỗi sẽ bị tiêu hủy. Người bị xét xử ở đây là “người cai trị thế gian,” hay là Satan, hoàng tử của thế gian. Việc xét xử hoàng tử của thế gian bị ảnh hưởng bởi Thập Giá và Sự Sống Lại, vì thần dữ không bao giờ có thể làm điều gì quyền lực hơn việc giết Con Thiên Chúa trong xác thể. Bị bại trận ở đó, nó không bao giờ có sự chiến thắng nữa. Adong và Evà, sau khi phạm tội, đã bị chạm trán với sự công chính của Thiên Chúa, và hình phạt là bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng; trong trận Đại Hồng thủy, tội lỗi của nhân loại đã bị chạm trán với sự Thánh Thiện của Thiên Chúa, và trận lụt đã kéo đến như án phạt; khi dân Israen ra khỏi đất Ai-cập, cuộc Xuất Hành đã được thực hiện bởi sự xét xử của Thiên Chúa; và bây giờ khi Thần Khí Sự Thật đến, Người sẽ mang đến lòng trí con người sự xét xử đã có ở sự sống, cái chết và chiến thắng sự dữ của Chúa chúng ta. Thế gian không bị lên án từ trong cái nhìn của riêng nó, nhưng nó sẽ bị lên án bởi cái nhìn từ con mắt của những người mà cái nhìn của họ đã được thanh luyện bởi cây Thập Giá. Thánh Thần sẽ tỏ cho con người cái bản chất chân thật của bi kịch vĩ đại được hoàn tất trên Thập Giá.