Khi Chúa tuyên bố chính Người là Con Thiên Chúa và là Một với Chúa Cha Trên Trời, những người thù ghét Người đã tìm cách giết Người. Khi Người nói với các môn đệ là Người sẽ bị đóng đinh và Người là Con Người chịu đau khổ, họ đã tranh luận với Người hoặc là với nhau để được ngồi chỗ cao nhất trong Nước của Người.
Thiên Tính và Đấng Cứu Thế đau khổ, cả hai đều không được chấp nhận đối với những con người phàm tục. Thiên Tính, vì con người thầm kín muốn là chúa của riêng họ; đau khổ, vì cái tôi không thể hiểu tại sao hạt giống lại phải chết đi trước khi nẩy sinh sự sống mới. Con Thiên Chúa trở nên sự vấp ngã khi Người tự hạ xuống làm thân phận con người, nhận lấy hình ảnh và tập quán của con người. Thật khó để trí khôn tin là Sự Cao Cả có thể trở nên qúa thấp hèn. Trái lại, Con của Người trở nên sự ô nhục khi Người mang lấy thân phận yếu hèn và tội lỗi của nhân loại và đã không dùng uy quyền Thiên Tính của Người để thoát khỏi Thập Giá.
Vài lần họ đã tìm cách ám hại Người; hầu hết là vào những dịp lễ lớn, nhưng luôn luôn là sau khi Người tuyên bố về Thiên Tính của Người. Lần thứ nhất họ muốn giết Người là lúc ở Nazareth. Người nào cũng có quê hương riêng, nhà riêng, và họ hàng gia tộc riêng. Những người đồng hương đồng tộc sẽ yêu quí họ. Nhưng khi Chúa Giêsu tiến về phía Thập Giá, bước đi của Người đã tiến nhanh bởi sự chống đối của chính những người ở quê hương của Người.
Như bóng rợp phủ dài của ánh mặt trời buổi chiều ngày thứ Sáu đang tắt dần ở làng nhỏ Nazareth, ép mình bên những ngọn đồi, tiếng tù và được trưởng hội đường thổi lên báo hiệu ngày Sahbath bắt đầu. Sáng hôm sau Chúa Giêsu đi dến hội đường, nơi Người thường lui tới khi còn nhỏ và lúc còn trẻ. Rất có thể khi Người bước vào hội đường lần này, tin đồn về phép lạ ở Cana và ở Jordan nơi tầng trời mở ra công bố Thiên Tính của Người đã khiến dân chúng nóng lòng mong đợi.
Rồi Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, quay trở về Galilêa và những lời nói về Người được lan đi khắp miền lân cận (Lc 4:14).
Trong hội đường, Người được trao cho cuốn Sách của I-sai-a. Lời tiên tri cá biệt mà Người đọc đã liên quan đến Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa.
Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa (Lc 4:18-19).
Đoạn văn này rất quen thuộc với người Do Thái. Đó là lời tiên báo của Cựu ước liên quan đến việc giải thoát người Do Thái khỏi lưu đầy ở Babylon. Nhưng Người đã làm một điều khác thường. Người đổi ý nghĩa của những từ ngữ “người nghèo,” “người nô lệ” và “người mù.” “Người nghèo” là những người không có ơn thánh và thiếu sự liên hiệp với Thiên Chúa. “Người mù” là những người chưa nhìn ra ánh sáng; người “nô lệ” là những người chưa được chuộc lại sự tự do chân thật khỏi tội lỗi. Rồi Người tuyên bố là tất cả đều ứng nghiệm ở nơi Người.
Nhưng trên hết, Người công bố năm hồng ân. Luật Mai-sen định là cứ năm mươi năm thì có một năm hồng ân phục hồi đặc biệt. Tất cả các món nợ đều được tha; mọi gia sản thừa tự, qua nhiều năm đã bị lạc chủ, được trả về cho chủ cũ; những người bị cầm giữ được trả tự do. Đó là lệnh truyền của Thiên Chúa để chống lại những kẻ độc tài độc quyền; và nó giúp bảo toàn đời sống các gia đình. Năm hồng ân đối với Người là dấu chỉ về Người là Đấng Thiên Sai xuất hiện mà Người công bố, bởi vì Người đã được xức dầu với Thánh Thần để làm việc đó. Sẽ có sự phong phú trong tinh thần mới, ánh sáng mới, tự do mới, tất cả đều tập trung ở nơi Người – Đấng Rao Giảng, Đấng Chữa Lành và Đấng Giải Phóng. Mọi người trong hội đường chăm chú nhìn Người. Thế rồi những lời bất ngờ nổ ra:
Hôm nay những lời các ngươi nghe được ứng nghiệm (Lc 4:21)
Người biết là họ đang trông ngóng một vị vua theo nghĩa chính trị để lật đổ ách thống trị của Roma. Nhưng Người lại công bố ơn cứu chuộc khỏi tội lỗi, chứ không phải là giải thoát khỏi sự thống trị của quân phiệt độc tài. Chỉ trong tư cách này, họ mong muốn lời của tiên tri I-sai-a được nên trọn.
Có thể hiểu được là người dân Nazareth đã ngạc nhiên nghe Người tuyên bố chính Người là Đấng được xức dầu của Thiên Chúa, người mà I-sai-a nói đến. Lúc này họ có hai lựa chọn trước mắt: một là nhìn nhận Người là sự nên trọn các lời tiên tri; hay họ có thể chống đối. Sự trọng vọng ở quê nhà dành cho Đấng Thiên Sai đã lâu ngày mong đợi và Đấng mà Chúa Cha trên trời đã công bố ở sông Jordan là Con Thiên Chúa đã thật qúa đáng đối với họ, vì Người qúa quen thuộc đối với họ. Họ chất vấn:
Đây không phải là bác thợ mộc, con của Maria sao? (Mc 6:3).
Họ cũng có tin vào Thiên Chúa trong cách nào đó, nhưng không phải là một Thiên Chúa động chạm gần gũi ngay trong lối xóm với họ, và là người giơ những nhát búa trong cùng xưởng thợ. Cũng giống như lời nói vô can của Na-tha-na-en: “Có gì hay ở Nazareth chứ?” bây giờ trở nên sự khinh thị chống lại Người ngay ở quê hương của Người, và từ những người thân quen của Người. Người đúng là con của bác thộ mộc, nhưng là Bác Thợ Mộc đã đóng và dựng lên trời đất. Vì Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm, và được thấy trong sự khiêm tốn của người thợ trong làng, Người đã không chiếm được sự kính trọng của họ.
Chúa Giêsu đã “ngạc nhiên vì họ không tin.” Hai lần trong Tân Ước đã nói là Người “lấy làm lạ” và “thật ngạc nhiên”: Một lần vì đức tin của một người dân ngoại; và lần thứ hai là về sự thiếu lòng tin của những người dân làng của Người. Từ những người thân quen, Người có thể được nhìn nhận cảm thông cách nào; một số quen biết để chào đón Người. Băn khoăn của Người là mức độ đo sự đau đớn nơi Người, cũng như là về tội lỗi của họ, khi Người nói với họ:
Không tiên tri nào được trọng vọng nơi quê hương mình, và từ nơi những người thân thuộc và gia đình (Mc 6:4).
Để cho họ cảm thấy trong tâm hồn là giá trị bản thân của họ nơi Người đã bị thương tổn, và nếu ngay những người đồng hương đồng tộc đã không đón nhận Người, thì Người sẽ mang ơn cứu độ đi nơi khác, Người đã đặt chính mình vào vị trí của các tiên tri trong Cựu ước, những người cũng đã không được đón nhận khá hơn Người. Người đã trích dẫn hai thí dụ trong Cựu ước. Cả hai trường hợp đều chiếu soi trước về hướng Tin Mừng sẽ xẩy ra, đó là đến với những người dân ngoại. Người đã nói với họ rằng đã có rất nhiều bà góa trong dân Israen thời E-li-a khi có nạn đói trong đất nước, và khi trời đóng lại để hạn hán suốt ba năm. Nhưng E-li-a đã không được sai đến với bất cứ ai trong những người này; ông lại được sai đến với một bà góa ở Sa-rep-ta trong miền đất dân ngoại. Trích dẫn một thí dụ khác, Người nói là cũng đã có rất nhiều người bệnh phong trong thời E-li-a, nhưng chẳng ai trong họ ngoại trừ Na-a-man, người xứ Sy-ri-a, được chữa lành. Nhắc đến Na-a-man là việc nhục mạ đối với họ, vì trước đó ông ta không tin nhưng sau này lại tin. Vì cả hai là dân ngoại, Người đã ám chỉ là những lợi lộc và ân phúc của Nước Thiên Chúa đến tùy thuộc ở việc đáp theo đức tin, chứ không hệ tại ở chủng tộc.
Thiên Chúa, Người bảo họ, không mang nợ ai cả; tình thương của Người sẽ đến với những người khác nếu dân riêng của Người không biết đón nhận. Những người đồng hương đã được nhắc bảo là sự trông mong theo quan điểm chính trị thuộc triều đại trần thế đã làm mờ mắt không cho họ thấy chân lý cao cả là nước trời đã đến với họ nơi chính bản thân của Người. Quê hương xứ sở của Người đã trở nên sân khấu cho tiếng kèn cứu độ không phải thuộc về một giòng máu hay của một dân tộc, nhưng là của toàn thể thế giới. Mọi người đầy nóng giận, trước hết là vì Người đã tuyên bố đem đến ơn tha tội trong vai trò là Đấng được Thiên Chúa xức dầu; thứ đến là vì lời cảnh báo rằng ơn cứu độ đáng lý ra là cho dân Do Thái trước, nhưng vì họ từ chối Người, nên nó đã được chuyển sang cho dân ngoại. Các thánh đã không luôn được ngưỡng mộ bởi những người sống cùng thời với các người. Họ đã đuổi Người đi, vì Người đã chối bỏ họ, và tự xưng là Đấng Kitô. Sự bạo động của họ là một chuẩn bị cho Thập Giá của Người.
Nazareth nằm dọc mấy ngọn đồi. Một khoảng cách không xa từ đó đến miền đông nam là một tảng đá to cao vài chục mét, nhìn xuống thung lũng sâu vài trăm mét là đồng bằng Esdraelon. Chính đó là nơi mà truyền thuyết kể lại là họ muốn đẩy Người xuống vực thẳm đồng bằng.
Nhưng Người đã bước ra khỏi giữa họ để thoát đi (Lc 4:30).
Giờ chịu đóng đinh của Người chưa đến, nhưng những phút giây của kim đồng hồ đang tiếp tục chạy với những bạo động bất cứ khi nào Người tuyên bố Người được Thiên Chúa sai đến, và Người là Thiên Chúa.
Nỗ lực ám hại Người một lần nữa đã xẩy ra sau khi Người chữa một người tật nguyền ở Bethsaida. Bên bờ hồ ở Giêrusalem, những người đau yếu, buồn khổ, hao mòn, và bất lực qui tụ lại mong được chữa lành. Một người bất hạnh đã bị tàng tật suốt ba mươi tám năm. Khi Chúa Giêsu thấy anh, Người hỏi:
Anh có muốn được lành bệnh không? (Ga 5:6)
Khi người liệt đó tỏ ra tin tưởng vào quyền lực của Người, Chúa đã bảo anh:
Hãy chỗi dạy, vác chõng mà về (Ga 5:8).
Với lời truyền đó kèm theo là quyền lực ban ra. Bất cứ khi nào con người có ý làm điều họ biết là ý của Thầy, thì quyền lực sẽ được ban ra cùng với trách nhiệm. Như thánh Augustinô nói, “Hãy truyền điều Người truyền, và hãy truyền điều Người muốn.” Ngay vừa khi người đó được chữa lành, anh đã đi đến đền thờ. Đến chiều cùng ngày, Chúa lại thấy anh ở đó, khi người được chữa lành đó đã nói với mọi người là chính Chúa Giêsu Người đã làm cho anh được lành mạnh. Trắc trở lại bắt đầu xẩy ra, vì hôm đó là ngày Sa-bath. Khi những người lãnh đạo trong dân thấy người đã được chữa lành thì họ nói với anh:
Hôm nay là ngày Sa-bath. Anh không được phép vác chõng đi trong ngày Sa-bath (Ga 5:11).
Sau đó họ bắt đầu xúi dục chống đối Chúa Giêsu “vì làm những điều như thế trong ngày Sa-bath.” Chúa Giêsu đã chữa lành trong mọi ngày, nhưng Sa-bath là những ngày cao trọng của ơn thánh và đã có sáu phép lạ được ghi lại. Người trừ qủi; Người chữa lành cho người bị bại tay; người đàn bà què chân được chữa cho đứng thẳng; Người chữa cho người bị phù thủng; và Người cho người mù được sáng mắt.
Nhiều câu trả lời đã được nói cho các vị lãnh đạo trong dân về việc chữa lành trong ngày Sa-bath. Người nhắc lại lời của các tiên tri rằng những việc lành thánh được coi là quan trọng thuộc hạng nhì khi đem so với việc lợi ích cho dân của Thiên Chúa; sau đó, Người đã cậy đến lề luật, để cho thấy rằng ngày Sa-bath thuộc hạng nhì đối với việc phục vụ ở đền thờ. Ám chỉ là ở giữa họ còn có Đấng cao trọng hơn là đền thờ. Một lần nữa Người đã nói ngày Sa-bath có vì con người chứ không phải con người vì ngày Sa-bath. Một trường hợp khác Người nói:
"Những kẻ đạo đức giả kia! Thế ngày sa-bát, ai trong các người lại không cởi dây, dắt bò lừa rời máng cỏ đi uống nước? (Lc 13:15).
Nhưng thay vì ca ngợi cảm tạ Thiên Chúa vì một người bệnh được chữa lành, hay là vui mừng như tiên tri Ana vì đã thấy ơn Cứu Chuộc của dân Is-ra-en, họ lại chống đối vì một người vác chõng đi trong ngày Sa-bath. Khi họ tìm cách giết Người vì Người đã làm việc này trong ngày Sa-bath, Người trả lời họ:
Cha của Ta không ngưng làm việc, và ta cũng làm như thế (Ga 5:17).
Đúng là Thiên Chúa nghỉ việc tạo dựng trong ngày thứ bảy, tuy vậy ngày thứ Bảy không phải là điều cần thiết để Người bồi dưỡng sức lực. Nhưng nó lại là điều cần thiết để con người nghỉ ngơi và thánh hóa ngày thứ Bảy, bởi vì làm việc khiến cho họ mệt nhọc; và ở tình trạng hiện tại làm việc cũng là một hình phạt. Nhưng dầu vậy, Đấng Cứu Thế nói rằng Thiên Chúa không ngưng công việc quan phòng của Người để tiếp tục ban phát những ơn cần thiết cho các tạo vật của Người. Thánh Chrysostom nói:
Thiên Chúa Cha làm việc thế nào, Người nghỉ mọi công việc trong ngày thứ Bảy?
Hãy để họ học cách Người làm việc, nó là cái gì?
Người chăm sóc, gìn giữ tất cả những gì Người đã tạo dựng.
Khi bạn nhìn ngắm mặt trời mọc, mặt trăng xoay vần theo qũi đạo, các ao hồ, sông núi và mưa rơi, các hạt giống theo trật tự thiên nhiên, thân xác và mọi loài muông thú, cùng tất cả những thứ khác được tạo thành trong vũ trụ, thì sẽ thấy sự làm việc không ngừng của Thiên Chúa Cha.
Cho rằng Thiên Chúa không còn hoạt động trong vũ trụ có nghĩa là Người không quan tâm gì đến nó. Sự tiến hóa và những phát hiện thiên nhiên của các sự vật không phải là việc tự giải thích cũng không phải là tự hoạt động. Chúng không tách biệt khỏi Thiên Chúa và cũng chẳng đi ngược lại với Người. Sau việc tạo dựng ban đầu Thiên Chúa không ngừng tác tạo. Vì có sự dữ ở thế gian, Thần khí ban đầu đã vận chuyển chất thể từ hư không bây giờ bắt đầu vận chuyển giữa loài người.
Nhưng Chúa còn nói nhiều hơn thế, và những ai nghe Người đều biết như thế. Người xác nhận sự liên kết cá biệt và đồng nhất với Chúa Cha. Nếu Thiên Chúa Cha làm việc lúc này trong lãnh vực thiêng liêng, thì Người cũng thế; nếu mọi sự đều được tạo dựng bởi “quyền lực của Ngôi Lời” thì bây giờ “Ngôi Lời mặc xác người”; nếu Chúa Cha lo cho những nhu cầu của các thụ tạo trong ngày Sabath, thì cũng đúng như thế khi Chúa Con làm những công việc của tình thương trong ngày Sabáth. Do đó Người đã công khai tuyên bố đồng hàng với Chúa Cha. Việc làm của Chúa Cha và của Người cũng là một. Cảm nghiệm liên hệ sâu đậm là Con Thiên Chúa của Người trào lên nơi bản tính nhân loại của Người. Những người lãnh đạo trong dân nghe những lời xác nhận của Người nói Người là Con Thiên Chúa, và Tin Mừng nói là họ trở nên:
Càng quyết tâm tìm cách giết Đức Giê-su, vì không những Người phá luật sa-bát, lại còn nói Thiên Chúa là Cha của mình, và như thế là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa (Ga 5:18).
Nhiệt độ thù ghét tăng lên vì sự xác nhận Thiên Tính quyền uy của Người. Họ không xét đến phép lạ, và đã quyết tâm lập mưu ám hại Người. Người đang trên đường đi đến Thập Giá, không phải vì Người đã có lỗi nhưng chính vì Thiên Tính của Người và mục đích cao cả trong việc Người đến. Thánh giá của Người sẽ là dấu chứng chống lại những kẻ ngu xuẩn, và sự sống lại sẽ là dấu chứng cho Thiên Tính của Người. Thánh giá ở cuối đời Người, nói theo quan điểm của thời gian; nhưng nó là khởi điểm cho cuộc đời của Người theo quan điểm do ý định Người hiến thân như của lễ cứu chuộc con người.
Một lần khác họ muốn ám hại Người ở Giêrusalem trong ngày Lễ Lều Tạm. Người đã bị hạch hỏi làm thế nào mà Người biết nhiều đến thế.
"Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế! " (Ga 7:15)
Không có chứng cớ loài người về sự hiểu biết của Người. Suối thác bí mật là chính tình liên hệ mật thiết của Người với Cha mà Người giải thích:
Những lời Ta truyền dạy không phải là của riêng Ta; đó là lời truyền dạy của Đấng đã sai Ta (Ga 7:16)
Không thể sai lầm trong ý nghĩa của Người muốn nói. Người tuyên bố Người là Thiên Chúa trong hình thể con người. Họ đã phản ứng bạo động – một nỗ lực nữa muốn ám hại Người; và Người đã lặng lẽ chất vấn:
Tại sao các ngươi lại muốn giết ta? (Ga 7:20)
Một lần khác cũng có mưu toan như thế. Đó là ngay lúc họ tức giận về lời nói của Người liên quan đến Abraham. Những người Biệt Phái, vì Chúa đã nói về Cha Người, đã xác minh Abraham là cha của họ: như vậy họ đã phân biệt chính họ với những người dân ngoại, bằng việc xác nhận họ thuộc dòng dõi của tổ phụ dân Do Thái. Họ đúng là con cái của Abraham, và liên hệ với Abraham được chứng minh ngay nơi thân xác họ, qua việc cắt bì. Chúa Giêsu không phủ nhận liên hệ giòng giống của họ với Abraham, nhưng Người xác quyết một mối liên hệ khác thuộc lãnh vực tinh thần: Không thể thực sự có tình cha con ở nơi có sự chống đối trong hành động.
Phía Đấng Cứu Thế thì không hề muốn hạ thấp Abraham. Việc ghi nhớ Abraham rất được tôn trọng trong dân Do Thái đến nỗi khi được nhìn nhận là con cháu của ông dưới đất sẽ là dấu chắc chắn cho họ sau này được an nghỉ trong lòng của Abraham. Ông không những là tổ phụ của dân tộc, ông còn là đỉnh thác nguồn và là máng thông chuyển lời hứa về Đấng Thiên Sai đến với dân của ông. Lời hứa lớn lao cũng được làm nơi Abraham, đó là ông sẽ là dụng cụ thông chuyển ơn phúc cho toàn thể thế giới. Điều hứa đó dường như không thể nên trọn khi ông đã là một cụ già; dù vậy, ông đã được dẫn ra khỏi lều dưới vùng trời đầy ánh sao và được cho biết là con cái ông sẽ đông như sao trên trời.
Chính ông lại là người đã được truyền đưa Isaac, người con duy nhất, và là người con của lời hứa, đi sát tế trên núi Moria. Lệnh truyền thật rõ ràng: ông đã sẵn sàng thi hành lệnh vừa khi Thiên Chúa ra lệnh ngừng tay, và một con chiên đã được thay thế vào đó. Rất có thể ngay hôm đó Abraham đã nhìn thấy bóng dáng một Người Con khác, sẵn lòng làm lễ vật, Người sẽ được hiến dâng bởi Cha Trên Trời vì tội lỗi của thế gian và cho ơn cứu chuộc. Như thánh Chrysostom đã nói, “Ông đã nhìn thấy Thập Giá của Đức Kitô khi ông đặt bó củi trên vai của con ông và sẵn lòng hiến tế Isaac.”
Khi những người lãnh đạo tuyên bố họ thuộc giòng dõi tinh thần từ Thiên Chúa, vì giòng dõi của họ từ Abraham là chính thức, Chúa đã trả lời rằng nếu giòng dõi tinh thần của họ là từ Thiên Chúa, thì họ đã không chối bỏ thông điệp của Người và không muốn giết Người, nhưng sẽ nhìn nhận và yêu mến Người.
"Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến. Thật thế, tôi không tự mình mà đến, nhưng chính Người đã sai tôi. (Ga 8:42)
Họ chất vấn lại, “Chẳng lẽ ông lại cao trọng hơn cha chúng tôi là ông Áp-ra-ham sao?” (Ga 8:53)
"Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã thấy ông Áp-ra-ham! " (Ga 8:57)
Chúa trả lời, “Ông Áp-ra-ham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ." Người Do-thái nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã thấy ông Áp-ra-ham!” Đức Giê-su đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Áp-ra-ham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu! " (Ga 8:56-59)
Chúa nói là Abraham đã mong mỏi vui mừng thấy điều mà Người nói về “ngày Ta đến.” Điểm chú ý là Người không nói về “Ngày Sinh của Ta.” Khi họ chất vấn là Người chưa được năm mươi tuổi, cho thấy rằng không phải là số tuổi của Người do thể lý khiến Người không thể thấy Ap-ra-ham. Họ cho rằng Người chỉ đơn thuần là một người phàm. Lúc này Chúa dùng cùng một từ ngữ đã được xử dụng ở núi Siani: “Ta là Đấng Hằng Có.” Người không nói , “trước khi có Abraham, đã có ta,” nhưng “trước khi có Ap-ra-ham, Ta hằng có.” Người nói về chính Người không đơn thuần là có trước Ap-ra-ham, nhưng là sự hiện hữu từ đời đời. Trước đó, Người đã nói việc Nhập Thể của Người đã làm cho Ap-ra-ham sung sướng khi ông nhìn qua các thời đại để thấy dáng dấp nên trọn của các lời hứa. Từ lâu trước thời của Ap-ra-ham, Người đã nắm giữ sự hiện hữu, không phải sự hiện hữu do bởi được tạo dựng nên mà là sự hiện hữu không do bởi được tạo thành, tự hữu hằng có đời đời, không thăng tiến đến mức hoàn hảo hơn vì Người là trọn hảo. Đã có lúc Ap-ra-ham không hiện hữu, nhưng không có lúc nào mà Con Thiên Chúa không hiện hữu. Đức Kitô không tuyên bố là Người đã đến trong hiện hữu trước Ap-ra-ham; nhưng là Người chẳng bao giờ phải đến trong hiện hữu. Người là “Đấng Là” của dân Israen xưa, “Đấng Là” không có qúa khứ hay tương lai; “Đấng Là” không có khởi sự và không có kết thúc, luôn luôn muôn đời cao cả ngay “lúc này.”
Vì họ đã hiểu là Người nói Người là Thiên Chúa:
“Họ liền lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giê-su lánh đi và ra khỏi Đền Thờ.” (Ga 8:59)
Sự lựa chọn là tôn thờ hay ném đá, và họ đã chọn ném đá. Những viên đá đó có lẽ là những viên đá đang nằm lăn ở sân, vì đền thờ chưa được làm xong. Trước đó họ cũng đã tìm cách giết Người khi Người tự nhận đồng hàng với Chúa Cha; bây giờ họ muốn ném đá Người bởi vì Người nói Người còn có trước cả Ap-ra-ham, và Ap-ra-ham đã mong thấy Người Đấng có từ đời đời với Thiên Chúa.
Có lẽ việc Người lánh đi mà Gioan đề cập đến không có nghĩa là do có sự can thiệp nào xen vào giữa Người và họ. Việc lánh đi đúng hơn là do những người không muốn nghe chân lý của Người, đơn giản là làm cho Người không còn được trông thấy bởi những kẻ tìm giết Người. Trước đó Người cũng đã làm đối với những người như thế. “Giờ” của Người chưa đến. Vì không ai có thể lấy đi mạng sống của Người cho đến khi Người tự đặt mình xuống, Người lánh mặt khỏi kẻ thù của Người. Chính ở đền thờ họ đã muốn ném đá Người. Vì đá của Đền Thờ Thiên Chúa, do đó sẽ có một ngày khi không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào ở ngôi đền thờ do tay con người xây dựng.
It lâu sau, Người lại viếng thăm di tích của đền thờ cũ, thường được gọi là Cổng Salomon. Vào dịp lễ Cung Hiến Đền Thờ, lễ hội cuối cùng trước lễ Vượt Qua. Lễ Cung Hiến được thành lập bởi Judas Machabeus để cử hành nghi thức thanh tẩy đền thờ sau khi bị người Syrians làm ô uế. Lễ Cung Hiến kéo dài tám ngày. Gioan trong Tin Mừng nói là vào mùa Đông, điều đó cho thấy không những nói về khí hậu nhưng cũng ám chỉ tình trạng của tâm hồn. Những kẻ thù ghét Người, luôn luôn tụ họp vây quanh Người chất vấn:
"Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết." (Ga 10:24)
Chúa đã công khai nói về sứ vụ cứu thế của Người, và xác nhận bằng những việc làm và các phép lạ. Nhưng ý nghĩ của họ về Đấng Cứu Thế không hợp với ý của Thiên Chúa về Đấng Cứu Thế. Họ mong thấy một người nào đó sẽ bẻ gẫy ách nô lệ của người Roma, giải thoát dân chúng và đem lại sự thịnh vượng cho dân tộc họ. Do đó, họ nóng lòng muốn biết xem Người có thanh tẩy thành Giêrusalem và những cổng lũy của lính Roma, giới lãnh đạo Roma, những đồng tiền của Roma, và những quan Roma như Philatô. Không phải là Judas Machabeus đã làm như thế sao, vì đó chính là lý do bây giờ họ cử hành lễ hội? Nếu đền thờ đã được thanh tẩy bởi vì có sự ô uế của người Syria, thì tại sao lại không thể thanh tẩy sự phạm thượng của người Roma? Bởi thế, nếu Người là Đấng Cứu Thế thuộc chính trị, hãy để Người công khai tuyên bố đi.
Người tiếp tục nói với họ rằng cần phải có điều kiện đạo đức luân lý để hiểu ra Sứ vụ cứu thế. Người đã làm những phép lạ, nhưng các phép lại không thể thuyết phục ý chí, cũng không phá bỏ tự do tham gia. Nhưng bây giờ Người sẽ công khai nói cho họ biết rõ Đấng Cứu Thế là ai:
Cha và Ta là một. (Ga 10:30)
Ta là Con Thiên Chúa. (Ga 10:36)
Trong tiếng Hy Lạp, từ ngữ “một” là sự trung lập, nghĩa là không phải một người nhưng là một bản thể hay một bản tính. Những người lãnh đạo trong dân đang tìm kiếm một Đấng Cứu Thế đến để tái lập Triều Đại của Người; nhưng trong vài thế kỉ, với sự giảm thiểu số các tiên tri, mối hy vọng của họ đã suy thoái dẫn đến việc đi tìm một lãnh tụ giải phóng chính trị. Họ không tìm một Đấng trong Ngôi Vị Thiên Chúa ở giữa họ. Họ đã thấy rõ là Đức Kitô, hay Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa Đấng chia sẻ Thiên tính của Chúa Cha, tuy ở trong nhân tính của Người, hay như là Con Người, Chúa Cha lớn hơn Người. Bây giờ Người tái xác nhận Người đã hiện hữu trước khi có nhân tính; Người đến từ Thiên Chúa Cha để mặc lấy bản tính nhân loại; ẩn che trong đó, Người như một Ngôi Vị Thiên Chúa nhận thức không có sự thay đổi nào trong Thiên Tính của Người. Cái có khởi sự là nhân tính của Người xuất hiện như một “người tôi tớ đau khổ.” Khi Người lúc này xác nhận Thiên Tính của Người, thì họ:
“Một lần nữa những người Do Thái cầm đá ném Người.”(Ga 10:31)
Người bảo họ:
"Tôi đã cho các ông thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho tôi làm; vì việc nào mà các ông ném đá tôi? "(10: 32)
Câu trả lời của họ là họ không thể chấp nhận sự xỉ nhục về Thiên Chúa lại ở trong hình thể con người. Thế gian không thể hiểu một con người lại thần thánh hóa mình, nhưng nó lại không thể hiểu một Thiên Chúa trở thành một con người: bởi thế họ nói lý do họ ném đá Người là:
"Chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa." (Ga 10:33)
Câu trả lời của Người là dù cho con người không thể là Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa có thể trở nên con người, trong khi vẫn là Thiên Chúa.
Bấy giờ họ lại tìm cách bắt Người, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ. (Ga 10:39)
Tội phạm thượng là bị phạt ném đá. Nhưng một số người vây quanh Người, với những cục đá nắm trong tay, đã không thể làm gì được Người: vì “giờ của Người chưa đến.” Trông có vẻ qúa dễ để triệt hạ Người, mà lại thật khó. Khi đến lúc, khi Người tự trao nộp mình cho họ, việc đầu tiên xẩy đến cho họ là họ bị giật ngã ngửa xuống đất.