Thập Giá là trung tâm điểm trong cuộc đời của Chúa đã trở nên rõ nét hơn. Người đã từng nói xa nói gần về nó, qua hình ảnh của đền thờ và con rắn đồng; và rõ hơn nữa khi Người hứa là trong vinh quang của Người, sau khi sống lại, để con người sống nhờ bởi Thịt và Máu của Người.
Vào dịp lễ đặc biệt nhất trong năm, Lễ Lều Tạm, có hai việc xẩy ra: thứ nhất, Người đề cập đến sự hiện diện của Thiên Chúa, Chân Thật và Sống Động ở nơi Người. Ngoài Người ra sẽ không có đạo lý, niềm tin hay sự giải khát. Người đánh tan mọi ảo tưởng của thính giả cho rằng Người dạy một luân lý đạo đức ở ngoài bản thân Người, một giáo thuyết khác với Ngôi Vị của Người, hay là một lối đạo đức học cao hơn, có thể dung hợp với một cảm nghiệm thấp hơn về Thiên Chúa hằng sống. Người cho họ biết rằng Người không phải là một cái “đặc biệt” thêm vào, hay một “phụ trội dư Giả” tinh thần để cho ai đó trích dẫn những lời của Người khi họ muốn. Đức Phật có thể được đặt cách biệt ra ngoài Phật Giáo; nhưng Đức Giêsu không thể bị để ra ngoài những điều Người truyền dạy hay rèn luyện nên, giống như những tia sáng không thể tách ra khỏi mặt trời. Người giải thích cho đám đông dân chúng hiện diện khi cử hành nghi thức của tám ngày lễ, Người đã giải thích về ý nghĩa của ngày lễ: Lều Tạm, nước, và ánh sáng. Mỗi cái đều có trung tâm điểm nơi Người, như Người đã xác định chính Người là một với Thiên Chúa, là một với mọi khai sáng của trí khôn, và là một với sự bình an của những linh hồn đói khát. Sự nhận diện nên trọn nghĩa: Chẳng có Thiên Chúa nào ngoài Đấng mà Người tỏ bày, không chân lý nào ngoài chính Người, không no thỏa nào khác ngoài Người.
Ảnh hưởng thứ hai về các lời của Người là đã gây nên bạo động, bài bác và quyết tâm giết Người. Nếu Người đã nói và đã không tuyên bố Mình là Ngôi Lời; Nếu Người đã trao đi các chân lý không liên can đến bản thân và sự an vui tâm hồn ở ngoài sự Hiện Diện Thiên Tính nơi Người thì có thể Người đã không mấy được thôi thúc tiến đến Thập Giá. Sự thù ghét từ những người lãnh đạo ở đền thờ đã khiến họ càng muốn bắt Người: Lần thứ nhất xẩy ra vào dịp Lễ Lều Tạm; lần thứ hai ở Vườn Cây Dầu. Cả hai lần, quân lính đều không có quyền lực để bắt Người; họ không bắt được Người ở dịp lễ này bởi vì Người đã bắt giữ được họ do sự Hiện Diện của Người. Họ đã không bắt ngay được Người ở tại vườn Cây Dầu mãi đến lúc sau khi họ đã bị làm cho bất lực và lùi bước. Vào dịp lễ Lều Tạm, như Người đã nói, “Giờ của Người chưa đến.” Tại vườn Cây Dầu, Người nói về Người là “Lúc này đã đến giờ.” Ở lễ Lều Tạm Người nói Người là Ánh Sáng thế gian; sau đó Người bảo họ “đó là giờ của bóng tối.”
Ở cả hai trường hợp, Người đều không thể bị bắt giữ cho đến khi Người tự nguyện hàng phục; ở cả hai trường hợp, chủ ý của con người đối diện với sự Tốt Lành của Thiên Chúa là đóng đinh, vì việc làm của bóng tối không thể đứng chung với ánh sáng. Lần bắt giữ thứ hai đã dẫn thẳng đến Thập Giá, và lần bắt hụt thứ nhất là việc tập dượt cho cuộc bắt giữ lần thứ hai. Bóng của Thập Giá được ngả ở mọi hướng, ngả trên các căn lều, ngả trên các suối lạch, ngả trên dàn đèn đuốc, và ngả trên dân chúng tham dự lễ Lều Tạm.
Lễ trọng hơn các lễ là một tưởng niệm cuộc giải thoát khỏi Ai-cập, khi Thiên Chúa hướng dẫn dân Is-ra-en qua sa mạc bằng cột mây lúc ban ngày và bằng cột lửa lúc ban đêm. Như đoàn hành hương trong suốt bốn mươi năm lang thang, người Do Thái đã sống trong các căn lều hay màn rạp dễ dàng được dựng lên hay cất xuống. Nơi trung tâm các căn lều là một Nhà Tạm biểu hiệu cho sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa họ.
Lễ hội này, được nhắc đến trong sách Levi và Xuất Hành, được cử hành vào mùa gặt hái hoa mầu. Mặc dù có việc Tạ ơn cho mùa gặt hái, Lễ hội này hướng về tương lai, và vì lý do đó đôi khi còn được gọi là “Giờ Tuôn Đổ,” biểu tượng cho Thần Khí của Thiên Chúa được tuôn đổ xuống trên dân chúng.
Khi tám ngày lễ này bắt đầu, Chúa Giêsu còn ở Ga-li-lê-a, nơi Người nghỉ trú khoảng sáu tháng vì sự chống đối của những người lãnh đạo đền thờ sau biến cố thanh tẩy đền thờ và phép lạ ở Bethsaida.
Bởi vậy, người Do-thái lại càng tìm cách giết Đức Giê-su, vì không những Người phá luật sa-bát, lại còn nói Thiên Chúa là Cha của mình, và như thế là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. (Ga 5:18).
Khi đến gần ngày lễ, Người bắt đầu bị những người thân và các đồng nghiệp thúc dục bởi vì Người không thích gây tiếng vang. Họ chất vấn tại sao Người lại làm các phép lạ ở Ga-li-lê-a, những làng chài lưới và những người quê mùa, trong khi thành phố lớn như Giêrusalem, sẽ cho Người qúa nhiều cơ hội để gây tiếng vang? Hơn nữa, nhờ đám đông nhiều người tụ tập trong dịp lễ, ai cũng sẽ biết đến danh tánh của Người, nếu Người chỉ làm một phép lạ ngoạn mục. Rút lui nghỉ ngơi là nhường bước. Họ nói:
"Ông bỏ đây mà sang miền Giu-đê đi, để cả môn đệ của ông cũng được nhìn thấy những việc ông làm, vì không ai muốn nổi danh mà lại hoạt động âm thầm cả. Nếu ông làm những việc ấy, thì hãy tỏ mình ra cho thiên hạ biết." (Ga 7:4).
Chúa Giêsu trả lời họ:
"Thời của tôi chưa đến, nhưng thời của các anh lúc nào cũng thuận tiện. Thế gian không thể ghét các anh, nhưng tôi thì nó ghét, vì tôi làm chứng rằng các việc nó làm thì xấu xa. (Ga 7:5,6).
Thời của Người hay giờ của Người để tỏ bày tất cả, thì chưa đến lúc. Làm căng thêm sự khác biệt giữa Người và thế gian, Người đã nói đến cái trớ trêu của những lời nói, cách xử sự và suy xét của họ chẳng khác gì là đồng tình với thế gian để thêm dầu vào ngọn lửa thù ghét của thế gian. Nhưng với Người thì khác: Lời của Người và đời sống của Người đã làm cho thế gian thù ghét Người rồi. Nếu Người đi Giêrusalem, thì phải đi trong danh nghĩa là Đấng Thiên Sai và Con Thiên Chúa, và đo đó sẽ tạo thêm thù ghét; nhưng nếu họ đi Giêrusalem như đoàn người hành hương, thì chỉ là đi tham dự một ngày lễ hội quốc gia. Khi Chúa nói về thế gian, Người đã ngụ ý nói về những người không tái sinh và những người không muốn đón nhận ân sủng của Người. Những người thân thích yêu chuộng ánh đèn mầu rực rỡ và được danh tiếng đều thuộc thành phần của thế giới không Thập Giá, không muốn làm sai lệch các luật lệ và tinh thần của thế gian.
Người nhận biết Thập Giá của Người, trong khi họ không nhận biết được nó. Người không đi cho đến khi có lời truyền từ Cha Trên Trời để tiến vào thành. Satan trước đó đã hứa cho Người tất cả mọi vương quốc trần gian và Người đã từ chối không nhận. Giêrusalem không đủ để quyến dũ Người phô trương các phép lạ cho những người không tin vào Ngôi Vị của Người. Những người đề nghị tìm ánh sáng của tiếng tăm vang dội có thể đi và tìm thấy vô số những kẻ không tin giống như họ. Họ trôi theo giòng đời giống như những khúc cây khúc củi chết khô. Chúa không nói là Người sẽ không đi dự Lễ Lều Tạm. Người nói là Người chỉ không đi vào lúc đó. Những người với đầu óc thế tục đã đi dự đại lễ và bỏ Người ở lại.
Sau này thì Người quyết định đi, không công khai như một nhân vật có tiếng, nhưng trong âm thầm kín đáo. Thật khác biệt giữa lần đi thăm thứ nhất, khi Người vào đền thờ và bất ngờ xô đẩy xua đuổi những người đổi tiền buôn bán, còn lần này Người lại đi cách âm thầm của một người đi hành hương! Nhưng ai cũng để ý đến Người. Người đã ngang nhiên trở nên nguyên cớ của sự chia cắt. Những người yêu qúi Người đều giữ im lặng vì sợ những người cai quản đền thờ, họ đã lên kế hoạch bắt Người.
Người Do-thái tìm kiếm Người trong dịp lễ và nói: "Ông ấy đâu rồi? " Dân chúng bàn tán nhiều về Người. Kẻ thì bảo: "Đó là một người tốt." Kẻ thì nói: "Không, ông ta mê hoặc dân chúng." Nhưng không ai dám công khai nói về Người, vì sợ người Do-thái. (Ga 7:11-13).
Lễ Lều Tạm, như đã được nói đến, tưởng nhớ nơi Chúa Hiện Diện giữa dân Do Thái, trong thời gian hành trình rời xứ Ai-cập. Và bây giờ ở giữa đoàn người là sự hiện diện của chính Thiên Chúa.
Ngôi lời trở nên xác phàm; Người đến ở giữa chúng ta. (Ga 1:14).
Tiếng Hy Lạp “Ở giữa” trong Tin Mừng có thể dịch đồng nghĩa “Là Nơi Tạm Trú” và do đó có nghĩa là Lều Tạm ở giữa loài người.
Targums của Do Thái thường được tóm giải nghĩa là “vinh quang của Thiên Chúa,” chữ Sheekinah hay “cư ngụ” cho thấy sự đồng hành gần gũi của Thiên Chúa đối với dân của Người. Những người tham dự ngày lễ hội nhớ lại là chính Chúa đã xưng nhận Người là “Đền Thờ của Thiên Chúa,” và tiên báo là đền thờ đó sẽ bị tàn phá nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại. Dù họ có ý tàn phá đền thờ, nơi lều tạm của Thiên Chúa ở giữa họ, như một số người trong thành đã hỏi:
Không phải đây là người mà họ muốn giết hay sao? (Ga 7:26).
Cuộc rước mừng lễ bắt đầu từ đền thờ. Khi đi đến hồ Siloe, vị thượng tế đổ nước đầy bình và trở lại đền thờ, nơi nước được đổ ra trong tiếng kèn vang hoà với tiếng ca “allêluia”của dân chúng. Việc này nói lên nỗi vui mừng mà nó thường được dân gian nói rằng “Ai không thấy vui mừng lúc đổ nước của hồ Siloe thì chưa bao giờ thấy vui trong cuộc đời.” Nghi thức cử hành đó không những là một nhìn nhận về lòng thương xót của Thiên Chúa qua việc đổ nước trên đồng ruộng của họ, mà cũng còn là một tưởng niệm phép lạ nước được cung cấp cho dân chúng từ tảng đá ở sa mạc. Lúc đó nước được trao ban bởi vị thượng tế trong đền thờ theo như lời của tiên tri Isaia:
Và ngươi sẽ lấy nước hoan lạc từ suối cứu độ (Is 12:3).
Chúa Giêsu, Đấng đã nói Người đến không phải để phá bỏ lề luật hay các lời Tiên Tri nhưng là để kiện toàn chúng, bây giờ lại nói để xác định Người là bản chất của cái mà tất cả các nghi thức này đã là hình bóng mờ mờ. Giọng của Người vang lên trên giòng nước tuôn đổ khi Người nói:
"Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống." (Ga 7: 37,38).
Người đã yêu cầu họ nhớ lại Thánh Kinh. Trong Sách Xuất Hành Thiên Chúa đã truyền cho Mai-sen đập vào tảng đá, và hứa cho nước chảy ra từ đó để cho dân chúng uống. Trong suốt thời Cựu ước, nước là biểu tượng của ơn phúc thiêng liêng, đặc biệt là trong Ezekiel, nơi một nguồn suối nước tuôn chảy ra từ Lều Tạm hay đền thờ, chữa lành dân các nước. Suối nước sự sống cho các tâm hồn, bây giờ Người tuyên bố, là chính bản thân Người. Người không nói, “Hãy đến với nước,” nhưng “Hãy đến cùng Ta.” Văn bản Talmud của truyền thống Do Thái thắc mắc về việc cử hành này, “Tại sao danh xưng của nó lại là lấy nước?” Bởi vì việc tuôn đổ Thánh Linh, theo như điều được nói đến, “Với niềm hân hoan ngươi sẽ lấy nước từ suối nguồn cứu độ.” Thánh Gioan giải thích giống như lời của Chúa:
Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh. (Ga 7:39).
Việc giải khát của tâm hồn con người được kết hiệp với việc làm của Thánh Thần. Chúa nhắm tới việc phát sinh ơn phúc tùy thuộc ở điều kiện chưa xẩy ra, là chiến thắng sự chết và lên trời của Người. Ơn Chúa Thánh Thần sẽ đến với con người không như một tuôn trào ma thuật, nhưng như cái đến tự nội tại đối với ơn cứu chuộc và niềm tin của họ ở nơi Người. Sự hiện diện thể lý của Đức Kitô ở trần gian khi chưa hoàn thành ủy thác của Chúa Cha để làm giá cứu chuộc vì tội lỗi không gồm ở việc nhận ra sự hiện diện của Người nơi các tâm hồn sau khi Người vinh quang và sai Thánh Thần của Người đến.
Một nghi thức khác liên kết với Lễ Lều Tạm được nói đến là cột lửa soi đường cho dân Israen ban đêm. Để cử hành ánh sáng mà chính Chúa của họ, hai dàn đuốc sáng được thắp lên từ Khu Án Đường của Nữ Giới; và theo lời chứng của một số giáo sỹ Do Thái, chúng tỏa sáng khắp thành Giêrusalem. Dân chúng hướng nhìn về giờ của Đấng Thiên Sai khi Thiên Chúa thắp lên cho họ ngọn đuốc sáng giữa muôn dân. Ánh sáng cũng biểu tượng cho vinh quang của Thiên Chúa hiện diện nơi đền thờ.
Khi Chúa còn là một Hài Nhi được bồng ẵm trên tay của ông Simêon, ông già đã nói về Người qua những lời này:
Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Người." (Lc 2:32).
Bây giờ là một người trưởng thành bước đi giữa những luồng sáng này, Người tuyên bố:
Ta là ánh sáng thế gian; Ai theo Ta sẽ không bước đi trong tăm tối; họ sẽ có ánh sáng ban sự sống. (Ga 8:12).
Người đã làm một lời công bố phổ quát hoàn vũ như đã được Isaia tiên báo rằng Người sẽ là Ánh Sáng cho muôn dân muôn nước. Không phải ai cũng bước theo Ánh Sáng; một số người sẽ thích bước đi trong bóng tối và do đó sẽ ghét ánh Sáng. Người, Đấng đứng ở đền thờ nơi ánh sáng đang từ từ mờ nhạt đi đã công bố chính Người là Ánh Sáng thế gian. Trước đó, Người đã xưng mình là Đền Thờ; bây giờ Người xác nhận Người là Vinh Quang và Ánh Sáng của Đền Thờ. Người công bố Người là nhu cầu thiết yếu cho sự sống của các tâm hồn hơn cả ánh sáng của vầng thái dương đối với sự sống sống của thân xác. Không phải là giáo thuyết của Người, không phải là luật pháp của Người, không phải là giới răn của Người, không phải là giáo huấn của Người làm nên sự sáng, mà là chính Bản Thân Người.
Ở giữa xác nhận của Chúa Giêsu rằng Người là Đấng Thiên Sai, đã khai mở cho một số những chuẩn bị theo hình luật và dân luật để sau này dẫn đến việc tử hình Người trên thập giá. Những người Biệt Phái đã gởi cảnh binh đến bắt Chúa. Trước khi họ đến, Chúa đã nói về cái Chết của Người”
"Tôi còn ở với các ông ít lâu nữa thôi, rồi tôi đi về cùng Đấng đã sai tôi. Các ông sẽ tìm tôi mà không gặp, và nơi tôi ở, các ông không thể đến được." (Ga 7:33-34).
Người đã thấy trước những gì sẽ xẩy ra. Còn sáu tháng trước Lễ Vượt Qua; chỉ còn thời gian rất ngắn trước khi Người hoàn tất sứ vụ đến trần gian. Họ đã lên kế hoạch giết Người, nhưng kế hoạch của họ sẽ không thành công cho đến khi Người tự ý trao nộp mình trong tay họ. Lúc đó cánh cửa sẽ khép lại và thời gian thăm viếng thế gian của Người sẽ chấm dứt. Sự phân cách giữa họ và Người sẽ không còn là khoảng cách không gian nhưng mà là sự cách biệt ở trí lòng, đó là sự cách biệt xa thẳm nhất.
Viên cảnh binh được lệnh đi bắt Người đã quay trở về tay trắng khi gặp các người Biệt Phái và tư tế. Họ hỏi ông:
"Tại sao các anh không điệu ông ấy về đây? " Các vệ binh trả lời: "Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!" Người Pha-ri-sêu liền nói với chúng: "Cả các anh nữa, các anh cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong hàng thủ lãnh hay trong giới Pha-ri-sêu, đã có một ai tin vào tên ấy đâu? Còn bọn dân đen này, thứ người không biết Lề Luật, đúng là quân bị nguyền rủa! " (Ga 7:46-49).
Những người lãnh đạo trong đền thờ đã coi thường dân chúng; họ cho rằng không một người dân đen tầm thường nào là đạo đức. Sự thật là những viên cảnh binh đã có ấn tượng qúa mạnh về Người và họ đã bị hàng phục trước suối nguồn ân phúc của Người cho thấy rằng quyền lực nơi Người có trên tất cả những người có tâm thiện. Nghiệp vụ của các viên cảnh binh đã được thánh hóa hôm đó khi những người này từ chối không bắt Đấng Cứu Thế.
Plutarch, theo cách nói bóng bảy của Mark Antony, cho rằng khi những người cảnh binh được phái đi để giết nhà diễn thuyết, ông đã năn nỉ được tha mạng cách qúa thuyết phục đến nỗi họ đã buông bỏ khí giới và òa lên khóc. Nhưng những người cảnh binh này đã rút lui không phải bởi quyền lực của tranh luận từ một người xin được tha mạng, mà là vì được nghe một trong những bài giảng thông thường của Người mà bài giảng đó lại không nhắm thẳng đến họ. Các cảnh binh đều mang khí giới; Vị Giảng Thuyết lại chẳng có khí giới gì, thế mà họ không thể bắt Người được. Chính quyền dân sự không luôn cử những người thông minh hay có tinh thần tốt để đi thi hành các nhiệm vụ như thế, dù vậy những người được sai đi làm nhiệm vụ này đã bị lôi cuốn bởi sự thuyết phục của Người và chứng tỏ cho thấy họ là những người thông minh hơn. Những người Biệt Phái, trong bực tức đã nói với các cảnh binh là, người thông minh không hề tin vào Người ấy. Vì không một người Biệt Phái nào tin vào Người, họ cũng chẳng có ấn tượng gì về thông điệp của Người, do đó cảnh binh không thể có lý do gì để bị ảnh hưởng bởi Người.
Còn một lần khác ở Vườn Cây Dầu khi các viên sĩ quan cũng đã có ấn tượng mạnh với Chúa đến nỗi họ đã phải lùi bước và ngã rập xuống đất, khi Chúa nói Người là Giêsu Nazaréth. Đêm hôm đó, họ thi hành được việc bắt giữ Người bởi vì giờ của Người đã đến. Nhưng vào lúc này thì họ chưa làm gì được Người.
Câu truyện về Ngày Lễ Lều Tạm kết thúc bằng những lời, “Giờ của Người chưa đến.” Một thời điểm đã được sắp xếp là giờ định mệnh cho mọi việc Người phải làm. Ngay cả việc Người chào đời cũng được trình bày như là “giờ viên mãn.” Do dó Thập Giá của Người phải có giờ điểm định. Mỗi vòng vĩ tuyến ngoài vũ trụ cũng được chỉ định xoay vần theo giờ điểm của nó. Những sắc lệnh và dự án của con người thường có sai lệch, nhưng với những chương trình quan phòng của Đấng Tối Cao thì không sai lệch. Sự đồng nhất của đời Người không thuộc về những việc làm rải rắc đó đây hay ở những dụ ngôn và những phát biểu của Người, nhưng ở trong sự hoàn tất của nó. Bêlem là nền móng của Can-vê và vinh quang của Người. Các bậc thang được lắp ráp đi lên từ máng cỏ, vì ngay từ nơi đó đã không có một căn phòng cho Người; sự đối kháng được Simeon tiên báo đã là một bậc thang khác; Lễ Lều Tạm cũng lại là một bậc thang. Người biết từng bậc thang trên đường, vì Người không chỉ là một con người nỗ lực làm hết sức trước nhan Thiên Chúa, nhưng Người là Chúa làm hết sức cho con người, qua tình yêu được tỏ bày trong việc Hiến Tế Chính Bản Thân Người.