Trong khoảng thời gian năm ngày ngắn ngủi đã xẩy ra hai trường hợp rửa chân nổi tiếng nhất trong lịch sử. Vào ngày Thứ Bảy trước Thứ Sáu Thánh, Maria, một hối nhân đã xức dầu thơm trên chân của Chúa Cứu Thế; ngày thứ Năm trong tuần lễ tiếp theo, Chúa đã rửa chân cho các môn đệ của Người. Không có gì nhơ nhớp nơi Đấng Cứu Thế, Chân của Người đã được xức dầu thơm; nhưng nhiều bụi trần còn bám trên chân của các môn đệ khiến họ cần phải được rửa.
Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng. (Ga 13:1)
Tâm trí Người nhớ lại lúc Chúa Cha trao tất cả mọi sự trong tay Người, và Người đến từ Chúa Cha. Nhưng lúc này “Giờ” trở về đã đến. Sứ vụ tiên khởi của Người là đến với những người mà những người đó lại không đón nhận Người; lúc kết thúc sẽ là với những người “đã đón nhận Người,” những người Người hứa là Người sẽ yêu thương họ “đến cùng.”
Giờ chia tay bao giờ cũng là lúc vội vàng tỏ tình yêu thương. Khi người chồng phải xa vợ một thời gian dài, thì nhiều cử chỉ yêu thương chăm sóc được tỏ bày hơn là lúc bình thường ở nhà. Chúa của chúng ta thường nói với các Môn Đệ của Người bằng những lời, “Anh em của Thầy,” “Chiên của Thầy,” “Bạn Hữu của Thầy,” “Thuộc về Thầy,” nhưng vào “Giờ” này Người gọi họ là “Của Riêng Thầy” như ám chỉ đến một tình nghĩa chí thiết. Người sắp rời bỏ thế gian, nhưng các Môn Đệ của Người còn lưu lại đó để tiếp tục rao giảng Tin Mừng và kiến tạo Giáo Hội. Tình cảm của Người dành cho họ lúc này thật dạt dào sâu đậm đến nỗi dù tất cả vinh quang trên trời đang giang tay chờ đón Người cũng đã không chi phối tình cảm yêu thương nồng thắm Người dành cho họ.
Nhưng càng gần đến cây Thập Giá, họ lại càng tranh luận với nhau hơn.
Các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất (Lc 22:24)
Ngay vào lúc khi Người sắp sửa để lại cho họ Tưởng Niệm Ân Tình, và khi trái tim yêu thương của Người sẽ bị đâm thấu bởi sự phản bội của Giuđa, họ lại tỏ ra không màng đến sự hy sinh của Người cho bằng cuộc tranh luận chức quyền danh vọng. Người nhìn đến Thập Giá; còn họ lại cho rằng không phải là việc tự hy sinh bản thân. Tham vọng đã làm họ mù quáng không nhận ra những bài học Người đã dạy về việc thống trị, nghĩ rằng một người cao trọng phải là người có quyền lực cai trị. Quan niệm cao trọng này là quan niệm của Dân Ngoại, họ phải bỏ quan niệm đó đi và thay thế vào đó bằng việc phục vụ người khác:
Đức Giê-su bảo các ông: "Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ." (Lc 22:25-27)
Chúa nhìn thấy, trong ý nghĩa nào đó, các Môn Đệ của Người là những ông vua; Người cũng không phủ nhận cái khuynh hướng qúi tộc của họ, nhưng cái khuynh hướng của họ phải là qúi tộc trong khiêm hạ, người quyền cao nhất phải là nguời thấp bé nhất. Để cho họ hiểu, Người nhắc bảo họ về địa vị của Người ở giữa họ, như Thầy và Chúa ở bàn tiệc – thế mà Người lại là người mà tất cả mọi dấu vết cao cả đều bị giết chết. Đã nhiều lần Người nói với họ Người đến không phải là để được phục vụ nhưng để phục vụ. Để mang lấy gánh nặng của những người khác, và cách riêng là cho tội lỗi của họ mà Người trở nên “Người Tôi Tớ Đau Khổ” mà tiên tri Isa-i-a đã tiên báo. Những lời trước đó Người nói là họ phải trở nên đầy tớ, bây giờ Người làm gương cho họ nhìn thấy.
Đức Giê-su biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, nên trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. (Ga 13:3-5)
Chỉ trong chốc lát mà mọi hành động của Chúa được phối hợp cách lạ thường, vì ít nhất là có bẩy việc làm được nói đến: đứng dạy, cởi áo, lấy khăn, thắt lưng, đổ nước, rửa chân, lau bằng khăn. Người ta có thể hình dung ra một ông vua trần gian, trước khi trở về từ một chuyến đi xa, đã làm một việc phục vụ khiêm tốn cho một trong những người thuộc hạ, nhưng họ không bao giờ nói ông làm điều đó vì ông sắp từ xa đi trở về hoàng triều. Nhưng ở đây Chúa được miêu tả việc rửa chân cho các môn đệ là vì Người đang sửa soạn trở về cùng Cha của Người. Người đã dạy sự khiêm tốn bằng mệnh lệnh, “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.” Bằng dụ ngôn, như trong câu truyện người Pharisiêu và người Thu Thuế; bằng gương mẫu, như khi Người đón nhận một em nhỏ; và bây giờ bằng cử chỉ hạ mình xuống.
Đây là bối cảnh tóm tắt cho việc Nhập Thể của Người. Đứng dạy từ bàn Tiệc Thiên Quốc trong tình liên kết mật thiết với Chúa Cha, Người đã cởi áo khoác Vinh Quang của Người, thắt chiếc khăn của bản tính nhân loại bao che Thiên Tính của Người đã nhận lấy từ Maria; đổ nước từ chậu tái sinh là Máu của Người trào tuôn trên Thập Giá để cứu chuộc loài người, và đã rửa linh hồn của các môn đệ và những người theo Người bằng các công nghiệp mang lại từ cái chết, sự Sống Lại và Lên Trời của Người. Thánh Phaolô diễn tả thật hay:
Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. (Phil 2:6-8)
Các môn đệ đã sửng sốt bối rối đứng bất động không nói nên lời. Khi sự khiêm tốn đến từ Thiên Chúa làm người như ở đây, điều thật rõ ràng là con đường đưa nhân loại quay về với Thiên Chúa phải là sự khiêm tốn. Mỗi người đều sẽ rút chân ra khỏi chậu nước nếu không phải là tình yêu đã chiếm đoạt lòng họ. Cử chỉ hạ mình được làm trong sự im lặng cho đến khi Chúa rửa chân cho Phêrô và ông cảm thấy trái nghịch nên phản kháng:
Si-môn Phê-rô liền thưa với Người: "Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao? " (Ga 13:6)
Phêrô thấy khó chấp nhận sự hạ nhục phải có của Thập Giá. Khi Chúa nói với ông ở Caesarea Philippi là Người sẽ đi lên Giêrusalem để chịu đóng đinh, Phêrô không ủng hộ việc bị nhục nhã như thế. Ở đây, sự suy nghĩ giống như thế lại xuất hiện. Phêrô cùng một lúc đã phối hợp, một đàng là chân thật nhìn nhận Uy Quyền Thiên Tính của Chúa, đàng khác là sự quyết tâm rằng vinh quang phải đoạt được không cần phải có đau thương. Bài học khó nhất cho con người tự tin này đó là ông vẫn còn phải học thêm nữa. Nhiều khi con người có thể lau đôi bờ má của họ bằng nước mắt thống hối, và nước mắt của Phêrô sẽ tuôn chảy chỉ trong vài giờ đồng hồ nữa. Nhưng những giọt nước mắt đó chỉ tuôn ra khi con người để cho Chúa rửa và lau họ khỏi tội lỗi. Chúa nói với Phêrô:
Bây giờ anh không hiểu việc Thầy làm, nhưng sau này sẽ hiểu (Ga 13:6)
Phêrô không thể hiểu tình yêu và sự hạ mình như thế cho đến khi cái hèn mọn nhục nhã đầy đủ trên Thập Giá được đội triều thiên bằng sự Sống Lại và ơn thánh của Thần Khí Thiên Chúa. Trước đó Phêrô đã can ngăn Thập Giá; bây giờ ông can ngăn tấm gương hạ mình dẫn đến Thập Giá. Ánh sáng soi các mầu nhiệm thuộc về tương lai; bây giờ chúng ta chỉ biết phần nào thôi. Một người có thể nói và làm những điều giống như trẻ con; và còn hơn thế nữa, một người cũng có thể có những hành động giống như Thiên Chúa vô biên! Người khiêm tốn sẽ chờ đợi, vì chính hành động cuối cùng là triều thiên của vở kịch.
Chúa đã không ban ơn hiểu biết cho Phêrô, và sau đó yêu cầu ông tuân phục. Người đã yêu cầu ông tuân phục, với lời hứa là sau này ông sẽ hiểu ra. Ánh sáng trở nên tỏ hơn khi ông vâng theo. Nếu ông đã quay đi, thì sự tối tăm có lẽ đã tăng lên. Chúa đã rửa sạch, dù Phêrô có ngăn cản, như người mẹ rửa mặt cho đứa con, dù đứa bé có vùng vằng kêu la khóc lóc. Người mẹ không đợi cho đến lúc đứa con hiểu ra rồi mới rửa, nhưng cứ làm xong công việc trong tình yêu thương. Cây không hiểu được việc tỉa cắt cành, đất cũng chẳng hiểu việc cầy bừa, Phêrô cũng không thể hiểu được mầu nhiệm của việc xỉ nhục vĩ đại này, như ông đã nhất mực chống cưỡng:
"Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu! " Đức Giê-su đáp: "Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy." (Ga 13:8)
Chúa đã nhắc bảo Phêrô rằng tinh thần khiêm tốn chân thật sẽ không cưỡng lại việc làm khiêm tốn của Người, nhưng ngược lại, sẽ nhận ra sự cần thiết của nó đối với việc Người giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi. Tại sao lại chống việc Con Thiên Chúa làm người rửa bụi bám ở chân, trong khi Người, Đấng là Thiên Chúa đã tự hạ để tẩy rửa sự sai lầm cho các linh hồn? Phêrô đã gạt bỏ nhu cầu được cứu chuộc của riêng tâm hồn ông dưới cái vỏ đội lốt chống lại sự hèn mọn của một việc làm khiêm hạ khi so sánh với việc Nhập Thể. Không nhẽ việc Ngôi Lời mặc lấy xác thể buộc khăn vải quanh mình như thế lại thấp hèn hơn là Người được cuốn trong khăn nằm trong máng cỏ sao?
Chúa tiếp tục nói với Phêrô rằng điều kiện để được hiệp thông chung phần với Người là phải được rửa sạch cách hiệu lực hơn là rửa chân. Từ chối đón nhận việc thanh tẩy của Chúa là tự loại ra khỏi sự hiệp thông với Người. Không hiểu tình yêu của Chúa có nghĩa là hy sinh thì sẽ phân cách chính ông ra khỏi hiệp thông với Người. Ý tưởng không được tham dự chung với Chúa đã khiến ông thay đổi trở nên khiêm tốn khác thường, như ông đã thừa nhận thưa với Chúa không những rửa chân mà cả toàn thân ông:
"Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa." (Ga 13:9
Không phải chỉ có chân ông bám bụi, nhưng cả những việc làm của tay và những ý tưởng trong trí óc cũng cần được thanh tẩy. Thay vì suy nghĩ cho là tội lỗi không quan trọng, và cảm thức tội lỗi là bất bình thường, Phêrô như vô tình đã kêu lên: “Con dơ bẩn qúa! Con dơ bẩn qúa!”
Khi Chúa đã rửa chân cho các ông xong, Người mặc áo khoác lại, ngồi xuống, và dạy các ông bài học là nếu Người là Chúa và là Thầy đã tự hạ chính mình mà còn hy sinh cả sự sống của Người, thì là môn đệ của Người, họ cũng phải làm như thế.
Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giê-su mặc áo vào, về chỗ và nói: "Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là 'Thầy', là 'Chúa', điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em. Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em!" (Ga 13:12-17)
Người cũng rửa chân cho ngay cả Giuđa! Nhưng dù Người làm trọn công việc hầu hạ của một đầy tớ, Người vẫn là “Thầy và là Chúa.” Không bao giờ ở trần gian mà các môn đệ đã từng gọi Người đơn giản với danh xưng Giêsu mà thôi, mặc dù đó là tên đã được đặt cho Người bởi Thiên Thần và có nghĩa là “Đấng Cứu Thế.” Khi Người xin để có thêm thợ gặt cho cánh đồng của Người, Người đã bảo họ cầu nguyện với “Chúa của mùa gặt”; khi Người sai họ đi lấy con lừa cho Người trong Ngày Chúa Nhật Lễ Lá, Người đã minh định, “Chúa cần nó”; và khi Người muốn dùng căn phòng tiệc ly, là chính “Chúa” nói đến nhu cầu đó. Các môn đệ cũng đã gọi Người là “Chúa,” và Phêrô cũng làm như thế khi ông bị lún chìm xuống nước, như Giacôbê và Gioan đã làm khi họ muốn xin Chúa tiêu hủy những người Samaritan, và như chẳng bao lâu sau họ hỏi, “Thưa Thầy, chẳng lẽ con sao?” (Mt 26:22). Trong ngày lễ Phục Sinh, họ đã nói, “Chúa sống lại rồi.” Tôma sau này kêu với Người, “Lạy Chúa”; Gioan cũng làm như thế khi ông nhận ra Chúa ở bờ hồ.
Đàng khác, bất cứ khi nào Tin Mừng nói về Chúa, họ luôn luôn nói về Người như “Đức Giêsu,” v.v., “Đức Giêsu đã bị cám dỗ bởi ma qủi,” và “Đức Giêsu giảng dạy.” Các bản Tin Mừng được ghi lại dưới linh ứng của Chúa Thánh Thần đã dùng danh tánh mà nó đã trở nên rất hiển vinh khi Người mang lại ơn Cứu Chuộc và Lên Trời. Từ đó về sau, Tên của Người thường được nhắc đến là “Danh Thánh Chúa Giêsu.”
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa". (Phil 2:9-11)