Ngay từ khi bắt đầu cuộc sống công khai, mục đích của Chúa là làm các phép lạ, giáo huấn và làm trọn các lời tiên tri, để liên kết các môn đệ với Người, ngăn chặn sức ép bên ngoài và sự phản loạn của thân xác đòi chống lại Người là Người Tôi Tớ Đau Khổ. Nhưng ngay cả đến lúc họ đã là những người dấn thân theo Người và tin nhận Người là Đấng Thiên Sai và là Con Thiên Chúa rồi, họ vẫn co rụt lại trước ý tưởng Khổ Hình Thập Giá, dù Người nói với họ là sau đó sẽ có sự Sống Lại. Họ giống như những chú bé người “Bộ Lạc Da Đỏ” mỗi đứa đều mong chờ làm Trưởng Bộ Lạc. Bóng tối bao phủ cái chết của Người đến với họ là dấu cho thấy họ còn ở trong tình trạng qúa thiếu chuẩn bị để đón nhận cái khổ hình của Thập Giá. Không lạ gì Chúa đã không thường nói đến Thập Giá của Người; có thể vì ít khi họ được nghe nói đến, hoặc là họ không muốn nghe, hay họ nghe nhưng không hiểu đúng.
Còn có nhiều điều Thầy muốn nói với anh em, nhưng bây giờ anh em chưa có sức chịu nổi (Ga 16:12).
Để chuẩn bị cho tâm hồn họ với sứ vụ của Người và để cho họ biết những điều kiện cho những người khác vào Nước của Người, Đấng Cứu Thế, với nhiều vấn đề khác, đã mở rộng cách riêng về sự trong trắng và khó nghèo. Dục tính không giới hạn có thể trở nên ham muốn dâm ô. Ham muốn của cải vô chừng có thể trở thành tham lam.
Chủ đề là trường hợp những người Biệt Phái đến hỏi Người để xem một người chồng có thể bỏ vợ bởi bất cứ lý do nào hay không? Lý do những người Biệt Phái nêu vấn nạn này là vì có sự cạnh tranh giữa hai trường phái trong Thần Học Do Thái, trường phái thuộc Hillel và trường phái của Shannai. Một trường phái chủ trương cho phép ly dị với những lý do thật đơn giản; còn trường phái kia thì đòi buộc phải có chứng cớ về trọng tội trước khi được chấp nhận cho ly dị. Câu hỏi trở nên phức tạp hơn khi vấn đề ly dị vào thời đó xẩy ra rất nhiều; những người Rô-ma, đang cai trị đất nước, đã công khai trắng trợn sống như thế. Hơn nữa, chính Herođê, người lãnh đạo đất nước dưới quyền Ro-ma, đang sống với vợ của anh mình và là người đã giết Gioan Tẩy Giả.
Chúa Cứu Thế, để trả lời cho câu hỏi của họ, tái khẳng định điều Người đã giảng dạy trên núi, và là điều từng được tuân thủ ngay từ thuở ban đầu giữa chồng với vợ.
Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly. (Mt 19:6).
Khi các môn đệ nghe đầy đủ những lời của Chúa về vấn đề này – cho dù một số người trong nhóm của họ cũng đã có gia đình, trong đó có cả Phêrô – họ đã kết luận qúa thiên về một phía:
Như thế thà đừng có vợ thì hơn (Mt 19:11).
Là vì có nhiều vấn đề thiếu chung thủy trong hôn nhân, câu trả lời của Đấng Cứu Thế là: cần phải có một số những người khác giúp quân bình hóa lại bằng việc tự nguyện từ bỏ không lập gia đình. Nếu có qúa nhiều cái thuộc nhục thể, thì cũng phải có những người dám tình nguyện từ bỏ cả những cái sung sướng được phép; nếu có những thái qúa trong việc kiếm tìm của cải, thì cũng cần phải có những người tự nguyện thực hành tinh thần nghèo khó. Nếu có người kiêu căng, thì cũng cần phải có những người không màng đòi hỏi đến ngay cả quyền lợi của riêng họ, nhưng sẽ tu sửa những hành vi kiêu căng bằng sự khiêm tốn.
Chúa nói với các môn đệ không được quan niệm là tốt hơn thì đừng lập gia đình. Đúng hơn phải nói là:
"Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu. Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu." (Mt 19:11,12).
Sống khiết tịnh độc thân được khuyến khích như một lối sống khôn ngoan hơn, nhưng không đòi buộc đại đa số. Sau này, Phê-rô đã bỏ vợ để đi rao giảng Tin Mừng. Khi Chúa khuyến khích sống bậc độc thân, rất có thể các môn đệ không nghĩ là điều đó được áp dụng cho họ, nhưng đúng hơn là phản ứng lại sự nghiêm khắc về giáo huấn của Thầy vì họ cho rằng nghiêm khắc như thế sẽ làm cho nhiều người sợ không dám lập gia đình. Câu trả lời của Người cho thấy họ đã hiểu ý Người nói. Lầm lỗi của họ là không nhận ra những hy sinh cao cả Người muốn gọi những người hy sinh vì Nước Trời. Người, Đấng thiết lập nên xã hội và là Đấng hiểu biết những đòi hỏi của tính dục, tuy vậy đã tạo cơ hội cho một số ít người dám chọn lối sống độc thân. Một số người khi sinh ra đã không có khả năng; một số người tự hoạn giống như Origen, đã sai lầm tự làm cho mình bất lực, nhưng cũng có lớp người thứ ba, đó là những người, không phải do hành động thể lý, nhưng do hành vi tự nguyện từ bỏ và khước từ, dẹp bỏ sung sướng thể xác qua một bên vì niềm vui tinh thần; đây là những người mà Người nói là tự nguyện hoạn vì nước trời. Sau này Thánh Phao-lô, biết về giáo thuyết này, đã viết:
Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ (1Cor 7:32-33).
Hôn nhân là cao qúi đáng tôn trọng; chẳng bao giờ Chúa Cứu Thế của chúng ta nói là nó ngăn cản sự thiêng liêng thánh thiện, hay tình liên hệ giữa con người với Thiên Chúa; nhưng trong bậc sống độc thân hay trinh khiết một linh hồn chọn Chúa như Người Yêu riêng của họ.
Như tính dục là bản năng Chúa ban để sinh sản tiếp nối sự sống con người, thì lòng ước muốn có tài sản là biểu hiện về ý thức bản ngã thuộc quyền bẩm sinh theo luật tự nhiên. Một người có tự do trong nội tâm vì họ có thể gọi linh hồn ở trong họ là của riêng họ. Người đó có tự do bên ngoài vì họ có thể gọi tài sản họ có là của họ. Tự do nội tại được đặt trên căn bản là “Tôi hiện hữu”; tự do bên ngoài được đặt trên căn bản là “Tôi có tài sản.” Tuy nhiên, giống như dục tình qúa độ trở nên dâm dục, ham mê dâm dục chính là dục tình không đúng chỗ, giống như bụi bặm nằm không đúng nơi đúng chỗ; ham mê của cải đến độ tham lam, mê hám lợi lộc và tìm mọi mưu kế đầu cơ tích trữ cũng là không đúng chỗ.
Để đền bù và sửa chữa, và để thay thế cho sự tham lam và ích kỷ, Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Người bài học thứ hai là tự hiến. Bối cảnh cho bài học thứ nhất về sự trong sạch là do câu hỏi của người Biệt Phái về hôn nhân; bối cảnh thứ hai là sự tham khảo của một thanh niên giầu có. Chúa Giêsu có cơ hội thu nạp anh vào hàng môn đệ; nhưng khi Người nói đến Thập Giá, thì Người bị mất anh. Người thanh niên trẻ đó muốn có phần thưởng, nhưng cái giá cho phần thưởng đó qúa lớn. Người bạn trẻ đó là người giầu có và cũng là một quan chức trong hội đường. Lòng ước muốn liên hệ với Chúa Giêsu được tỏ ra qua bằng chứng là anh đã chạy đến với Người và qùi xuống bên chân của Người. Sự công chính tốt lành của người bạn trẻ đó không ai phủ nhận được; câu hỏi của anh với Chúa là:
Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được sống muôn đời? (Mt 19:16).
Không như Ni-cô-đê-mô, anh đã không lén đến gặp Chúa vào lúc ban đêm, nhưng công khai ca tụng sự tốt lành của Đức Giêsu. Người thanh niên trẻ này tin là anh không xa trong việc được sự sống đời đời; nhưng cái duy nhất anh cần thêm là được chỉ dạy và được khai sáng. Chúa Cứu Thế chỉ ra cho thấy là con người đã biết đủ, nhưng không bao giờ họ làm đủ. E ngại là người thanh niên đó dựa vào vài ý tưởng thiếu trọn nghĩa của sự tốt lành, Chúa đã hỏi anh:
Tại sao anh gọi tôi là tốt lành? Không ai tốt lành ngoài trừ chỉ có Thiên Chúa (Mc 10:18).
Chúa Giêsu không bác bỏ việc được gọi là tốt lành, nhưng bác bỏ việc đơn thuần gọi Người là ông thầy tốt. Người thanh niên đã nói với Người như là một ông thầy tốt vĩ đại, nhưng vẫn chỉ ở phương diện của một người phàm; anh nhìn nhận sự tốt lành, nhưng vẫn chỉ ở lãnh vực tốt lành nhân loại. Nếu Người chỉ đơn thuần là một người phàm tốt lành thì cái danh hiệu của sự tốt lành chân thật chưa thuộc về Người. Có ẩn ý trong câu trả lời của Người với sự xác nhận về Thiên Tính nơi Người. Chỉ có Thiên Chúa mới là tốt lành. Do đó, Người mời gọi người thanh niên thốt lên: “Người là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống.”
Người thanh niên nhận là anh đã tuân giữ tất cả các giới răn từ khi còn tấm bé. Nghe anh nói như thế, Chúa Giêsu đã trìu mến nhìn anh và yêu thương anh. Khi người thanh niên trẻ đó hỏi:
Tôi còn thiếu điều gì nữa? (Mt 19:10).
Chúa Giêsu trả lời:
"Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi."(Mt 19:21).
Không hề có sự lên án về sự giầu có cũng giống như không có sự lên án về hôn nhân trong trường hợp nói đến trước đây, nhưng có sự hoàn thiện hơn đối với con người. Như một người có thể rời bỏ vợ thì một người cũng có thể từ bỏ của cải. Thập Giá đòi các tâm hồn bỏ đi cái họ yêu thích nhất và hài lòng với gia sản trong bàn tay của Thiên Chúa. Người ta có thể thắc mắc tại sao Chúa lại đòi hỏi một sự hy sinh như thế? Chúa Cứu Thế đã cho phép Za-kêu, người thu thuế giữ lại một nửa tài sản; ông Joseph thành Arimathea, sau biến cố đóng đinh của Chúa, đã được miêu tả là người giầu có; tài sản của Ananias là của riêng ông; Chúa Giêsu ăn uống nơi nhà của những người bạn giầu có ở Be-tha-ni-a. Nhưng ở đây câu hỏi của người thanh niên trẻ nêu lên là, còn điều gì thêm nữa trên đường hoàn thiện. Khi Chúa đề nghị cách bình thường cho việc cứu rỗi, có nghĩa là giữ các giới răn, người bạn trẻ đó đã không lấy làm đủ. Anh muốn tìm cái hoàn thiện hơn nữa; nhưng khi con đường hoàn thiện được đề nghị với anh, đó là sự từ bỏ:
Khi nghe nói như thế, anh đã buồn bã bỏ đi; vì anh có rất nhiều của cải (Mt 19:22).
Có nhiều cấp độ trong việc yêu mến Thiên Chúa, một cấp độ chung và một cấp độ anh hùng. Cấp độ chung là tuân giữ các giới răn; cấp độ anh hùng là từ bỏ, vác thập giá của tự nguyện nghèo khó. Lòng nhiệt thành của người thanh niên tan biến mất; anh giữ lại tài sản và bị mất Đấng muốn trao cho anh cây Thập Giá của Người. Mặc dù người thanh niên giữ lại tài sản của anh, anh được tả lại là đã bỏ đi cách buồn bã.
Khi người thanh niên đó đã đi khỏi:
Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! "Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: "Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa."(Mc 10:23-25).
Chúa quay sang nói với các môn đệ, những người Người đã kêu gọi đi trên đường hoàn thiện, và lợi dụng cơ hội đó để nói với họ về những nhân đức của sự nghèo khó. Như các môn đệ đã từng hỏi có nên lập gia đình hay không, bây giờ họ lại thắc mắc làm thế nào để một người có thể được cứu rỗi. Các môn đệ đã sửng sốt hỏi:
“Các môn đệ càng sửng sốt hơn và nói với nhau, “thế thì ai có thể được cứu?” (Mc 10:26).
Người ta thắc mắc cái gì đã ở trong ý nghĩ của một người môn đệ, mà người đã lấy cả tiền trong túi dành để giúp cho người nghèo. Các môn đệ là những người, không nhiều thì ít, đã tin việc giầu có thịnh vượng là phúc lộc ban cho từ trời, giống như trong lịch sử các thời đại. người ta thường cho sự phồn thịnh kinh tế là dấu chỉ có sự chúc lành của Thiên Chúa. Người ta giầu có tiến đến chóp đỉnh vì Thiên Chúa đã chúc phúc cho họ, nhiều người quan niệm như thế. Bây giờ Người lại nói sự giầu có là cản trở cho Nước Thiên Chúa, thì quả lại là một hình thức “cái tồi tệ khác của Thập Giá.” Các môn đệ biết là họ đã bỏ hết thuyền bè, chài lưới, cho dù là chẳng bao nhiêu; nhưng họ cũng không cảm thấy hoàn toàn thoát ly khỏi cái ham muốn sống ổn định bằng an. Chính cái nhát đâm thiên đình này chọc vào lương tâm của họ khiến họ ái ngại lo cho việc được cứu rỗi, như trong đêm bữa Tiệc Ly ai cũng thắc mắc: “Có phải tôi không?” Khi con mắt của Chúa nhìn vào họ, họ ái ngại cho trạng thái linh hồn của mình. Chúa đã không nói là họ xét xử mình qúa nghiêm khắc. Để trả lời cho câu hỏi của họ:
Chúa Giêsu nhìn họ và nói, với con người thì không thể được, nhưng mọi sự đều có thể đối với Thiên Chúa (Mt 19:26).
Bởi vì con lạc đà không thể nào chui qua lỗ kim được, cho nên nó thật là điều qúa đáng để nói là vấn đề được cứu rỗi cũng khó khăn đến như vậy; bởi vì đối với Thiên Chúa thì luôn luôn là có thể được.
Phêrô, một lần nữa lại hành động như một phát ngôn viên của các môn đệ, đã yêu cầu có được sự giải thích cho rõ nghĩa hơn về vấn đề kinh tế lợi nhuận trong việc từ bỏ của cải. Phêrô đã nghe Chúa nói đến phần thưởng lớn lao dành cho những ai đi theo Người. Biết là họ đã từ bỏ nghề nghiệp đánh bắt tôm cá ở biển hồ để đi theo Chúa, Phêrô hỏi:
Chúng con đã bỏ hết mọi sự để đi làm môn đệ của Thầy. Chúng con sẽ được gì? (Mt 1927).
Hiển nhiên là các môn đệ đã không từ bỏ nhiều so với cái người thanh niên giầu có kia phải từ bỏ; nhưng không phải là số lượng tài sản người ta bỏ là vấn đề được nói đến, nhưng là một người có thể bỏ hết tất cả hay không. Lòng bác ái được đo lường, không phải bởi cái cho đi, nhưng bởi cái người ta từ bỏ. Ở cả hai trường hợp, ai cũng chẳng còn giữ lại cái gì. Những người chọn Chúa Kitô thì phải chọn Người chỉ vì Người, chứ không phải là chọn theo Người vì phần thưởng. Chỉ sau khi họ hoàn toàn dấn thân theo Người, lúc đó Người mới nói đến việc thưởng công. Người đề nghị Thập Giá; bây giờ Người nói đến sự vinh quang là thành quả tất nhiên đến với họ.
Đức Giê-su đáp: "Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en. (Mt 19:28).
Người cho biết cái phần thưởng để họ hướng tới sự tái tạo cao cả, tiến tới phẩm trật các tạo vật mới của Thiên Chúa. Con Người Đấng mang Thập Giá ở trần gian sẽ được vinh quang trên trời.
Các Tông Đồ, họ là những viên đá nền tảng của phẩm trật mới này. Is-ra-en đã được xây dựng trên mười hai người con của Gia-cob; thì phẩm Trật Mới này của Chúa cũng được xây trên mười hai vị Tông Đồ, những người đã từ bỏ hết vì danh Người. Trong vương quốc mới này, vinh quang đặc biệt sẽ dành cho họ như tổ phụ của phẩm trật mới. Gioan, một người trong nhóm sau này đã viết:
Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên. (KH 21:14).
Nói rõ thêm về ý nghĩa phần thưởng dành cho những người đã bỏ cơ nghiệp của họ, Chúa Giêsu nói:
Đức Giê-su đáp: "Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau. (Mc 10:29-31).
“Bắt bớ” đã được cho vào trong tài khoản của phần thưởng, không phải là một mất mát, nhưng là một lợi nhuận. Phần thưởng gấp trăm sẽ được, không có nghĩa là không bao gồm sự bắt bớ, mà là vì có nó. Nếu họ trung tín cho đến chết, họ sẽ nhận được triều thiên sự sống; vì những đau khổ ở đời này không thể sánh với những niềm vui tương lai. Bởi vậy, dấu ấn Can-vê của ông Chủ đóng vào thân xác và tài sản của họ, nói với các Tông Đồ từ bỏ những cái mà thế gian mong chiếm giữ. Phêrô, người hỏi xem ông sẽ được gì khi đã bỏ thuyền và chài lưới, được cho biết là ông sẽ là hoa tiêu của con thuyền Phêrô, là Giáo Hội. Nhưng hôm đó, khi Chúa nói về các phần thưởng và thêm vào sự “bắt bớ” như để đong đầy, Phêrô đã không bao giờ quên. Sau này, lúc hạnh phúc và bị bắt bớ, người đã viết:
Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ. (1Pt 4:14).