Trong lịch sử thế giới, chỉ một ngôi mộ có tảng đá đóng niêm che kín cửa mồ và có lính được chỉ định đứng canh gác không cho người chết nằm trong đó chỗi dạy: Đó là ngôi mộ của Đức Kitô vào chiều ngày Thứ Sáu thánh. Còn có cảnh tượng nào buồn cười hơn là thấy những người lính đứng canh giữ một xác chết? Những những người lính gác đã được chuẩn bị, vì sợ người chết đứng dạy đi, sự im lặng phát lên tiếng nói, và Trái Tim bị đâm thâu lại mau chóng hồi phục. Họ nói Người đã chết; họ biết Người đã chết; họ muốn cho biết là Người không sống lại; ấy thế mà họ lại phải canh chừng! Họ đã công khai gọi Người là kẻ lừa đảo. Nhưng, Người có phải lừa đảo không? Chẳng lẽ Người, kẻ lừa đảo để cho người ta tin là họ thắng, lại là người thắng trận chiến cho sự sống, sự thật và tình yêu? Họ nhớ là Người đã xác nhận Thân Thể của Người là Đền Thờ và trong ba ngày sau khi họ phá hủy đi, thì Người sẽ xây dựng lại. Họ cũng nhớ là Người đã so sánh chính mình với Jonah và nói rằng giống như Jonah ở trong bụng cá ba ngày, thì Người cũng ở trong lòng đất ba ngày sau đó sẽ sống lại. Sau ba ngày thì Abraham tìm lại con mình là Isaac, người đã được dùng để hiến tế, và trong ba ngày, cả nước Egyptô đã ở trong bóng tối; vào ngày thứ ba Thiên Chúa đã ngự đến trên núi Si-na-i. Bây giờ, một lần nữa, lại có sự quan tâm về ngày thứ ba. Bởi thế ngay buổi sáng sớm ngày thứ Bẩy, các trưởng tế và Luật sĩ đã bỏ ngày Sabbáth để đến trình với Philatô:
Thưa Ngài, chúng tôi nhớ tên bịp bợm ấy khi còn sống có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ trỗi dậy." Vậy xin quan lớn truyền canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắn đến lấy trộm xác rồi phao trong dân là hắn đã từ cõi chết trỗi dậy. Và như thế, chuyện bịp cuối cùng này sẽ còn tệ hại hơn chuyện trước. (Mt 27:63-64).
Lời yêu cầu của họ để có lính canh gác cho đến “ngày thứ ba” có liên quan nhiều đến những lời của Đức Kitô nói về việc sống lại của Người hơn là về việc lo sợ các môn đệ của người đến lấy trộm xác của Người đem đi rồi loan truyền là người đã biến mất giống như đã sống lại. Nhưng Philatô không hứng thú để tiếp họ, vì chính họ là căn cớ khiến ông phải cho đổ máu người vô tội. Ông đã điều tra và biết là Đức Kitô đã chết; ông sẽ không chiều theo cái ngớ ngẩn dùng quân lính của Caesar để canh gác cái xác chết của một người Do Thái. Philatô bèn bảo họ:
“Các ngươi có lính đó, hãy đi mà canh gác theo như các ngươi có thể” (Mt 27:65).
Canh chừng để không có bạo động; đóng khóa lại để phòng ngừa trộm cắp. Cần phải đóng khóa, và những kẻ thù đã đóng khóa lại. Phải có canh chừng, và các kẻ thù đã làm việc canh chừng đó. Giấy chứng tử và sự sống lại phải được ký nhận bởi chính các kẻ thù. Những người dân ngoại đã bằng lòng nhận là Đức Kitô đã chết; những người Do Thái đã chấp nhận qua pháp luật là Người đã chết.
Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá và cắt lính canh mồ. (Mt 27:66).
Hoàng thượng nằm trong tư thế có người canh gác. Một sự thật rất ngạc nhiên ở cái cảnh canh phòng đặc biệt này về một người chết đó là những kẻ thù ghét Chúa Kitô đã nghĩ đến sự sống lại của Người trong khi các người bạn của Người thì lại không nghĩ đến. Những người tin Người lại là những người hoài nghi; trong khi những người không tin thì lại bán tín bán nghi nên họ canh chừng. Những người theo Người lại đòi có những dấu chứng trước khi họ có thể tin nhận Người. Trong ba bối cảnh của màn kịch sống lại đã có một dấu của buồn thảm và không tin. Bối cảnh thứ nhất là Ma-đa-lê-na khóc lóc trên đường đi đến mồ từ tảng sáng mang theo dầu thơm, không phải là để chào đón Đấng Cứu Thế Sống Lại, nhưng là để xức dầu cho thân xác của Người.
Trong bóng sương mờ của sáng Chúa Nhật có vài người phụ nữ đã đi ra mồ. Việc các người phụ nữ mang theo dầu thơm chứng tỏ là họ đã không nghĩ đến sự sống lại. Đây là thái độ hơi kỳ lạ vì sau nhiều lần họ đã nghe Chúa đề cập đến cái chết và việc Người sẽ sống lại. Nhưng rõ là như vậy, các môn đệ và những người phụ nữ, bất cứ khi nào Người nói về cuộc Thương Khó của Người, họ dường như chỉ nghe và nhớ về cái chết của Người hơn là việc Người sống lại. Họ không hề nghĩ điều đó có thể xẩy ra; đó là điều qúa xa lạ đối với lối suy nghĩ của họ. Khi tảng đá đóng kín lấp ngôi mộ, không những Đức Kitô bị chôn vùi trong đó nhưng tất cả niềm hy vọng của họ cũng bị chôn vùi theo. Ý nghĩ duy nhất trong tâm trí của những người phụ nữ lúc đó là đem dầu thơm đến để xức cái xác chết của Đức Kitô – một việc làm phát sinh từ sự lo sợ và một tình yêu chưa có đức tin. Hai người trong họ, ít là, đã chứng kiến cảnh mai táng; bởi thế họ có một lo ngại thực tế:
Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây? (Mk 16:3).
Đó là tiếng kêu của những tấm lòng yếu tin. Những người đàn ông lực lưỡng đã đóng kín cửa mồ bằng một tảng đá to ngăn chặn; lo lắng của họ là làm cách nào để đẩy tảng đá to lớn đó ra để họ có thể làm công việc từ ái của họ. Những người đàn ông đó sẽ không đến mộ cho đến lúc họ được triệu tập đến – các bà thật sự qúa kém lòng tin. Nhưng những người phụ nữ đã đến, họ đến trong u buồn nên họ đi tìm chút an ủi qua việc xức dầu cái xác chết của người thân. Thật là điều phản lịch sử để cho rằng những người phụ nữ này đã đang mong chờ Đức Kitô sống lại từ cõi chết. Sự sống lại là điều họ không hề tưởng nghĩ đến. Tâm trí họ không được tạo thành bởi loại chất liệu khiến cho những mong chờ như thế có thể tăng trưởng.
Nhưng khi họ đến gần, họ đã thấy tảng đá được đẩy khỏi cửa mồ. Trước khi họ đến nơi thì đã có động đất, và một Thiên thần của Chúa, đến từ trời cao, lăn tảng đá đó ra và ngồi trên đó:
Diện mạo người như ánh sáng chớp, và y phục trắng như tuyết. Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy chết ngất đi (Mt 28:4).
Khi những người phụ nữ đến gần họ thấy tảng đá, tuy nặng và to lớn như thế, đã được lăn khỏi cửa mồ. Nhưng họ không nhận ra là thân xác của Người đã sống lại. Họ cho là có ai đó đã lấy xác của Người di chuyển đi nơi khác. Thay vì thấy xác chết của Người thì họ lại thấy một thiên thần, mặt sáng ngời và áo người trắng như tuyết nói với họ như được kể lại:
Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền nói: "Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này! Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông" (Mc 16:6-8).
Với thiên thần thì sự sống lại không phải là một kỳ lạ, nhưng cái chết của Người mới kỳ lạ. Với con người, thì cái chết của Người lại không là kỳ lạ, nhưng sự sống lại của Người mới là kỳ lạ. Điều là lẽ đương nhiên đối với thiên thần, bây giờ là chủ đề của lời công bố. Thiên thần là người canh giữ hơn là những kẻ thù đã được cắt cử canh gác ngôi mộ của Đấng Cứu Thế, một vệ binh không phải là lính của Philatô.
Những lời của thiên thần là Tin mừng đầu tiên được rao giảng sau sự sống lại, và đó cũng là lời nhắc lại cuộc Thương khó của Người, vì thiên thần đã nói về Người là “Giêsu Nazareth Người đã chịu đóng đinh.” Những lời này nói về nhân tính của Người, về sự khiêm hạ nơi cư trú, và cái chết ô nhục của Người; cả ba thứ, sự khiêm hạ, khinh thường và ô nhục được đem so với việc sống lại từ cõi chết của Người. Belem, Nazareth và Giêrusalem cả ba đều mang dấu tích về sự sống lại của Người.
Những lời của thiên thần: “Đây là nơi người ta đã để xác của Người,” đã xác nhận cái chết của Người là thật và là sự kiện toàn những lời tiên tri xưa. Thường thì bia mộ được ghi khắc: Hic Jacet hay “Nơi an nghỉ.” Sau đó là kèm theo tên của người chết và đôi dòng lưu nhớ về người qúa cố. Nhưng ngược lại ở đây thiên thần lại không viết nhưng bày tỏ một văn bia khác: “Người không còn ở đây.” Thiên thần bảo các bà hãy nhìn xem chỗ Người nằm, cho thấy ngôi mộ trống là dấu chứng đủ cho sự thật của sự sống lại. Họ được hướng dẫn mau lẹ tức thời để hiểu về sự sống lại. Trước kia một trinh nữ được nhận tin báo về việc sinh hạ của Con Thiên Chúa. Bây giờ một phụ nữ người đã từng sa ngã lại được đón nhận tin của sự sống lại.
Những người thấy ngôi mộ trống được sai đi báo tin cho Phêrô người đã từng khuyên can Chúa né tránh Thập Giá và đã ba lần chối không biết Người. Tội lỗi và sự chối bỏ đã không làm nghẹt tình yêu của Thiên Chúa. Dù có nghịch lại với tội càng to thì lòng tin càn kém; và dù là như thế lòng thống hối càng lớn bao nhiêu thì đức tin lại càng lớn hơn bấy nhiêu. Người đến với những con chiên lạc lõng chạy hổn hển trong hoang địa; chính những người thu thuế và gái điếm, những Phêrô chối đạo và những Phao-lô bách hại, họ là những lời khẩn nài thuyết phục nhất để tình thương được gởi đến. Với người được gọi là Đá và người đã khuyên can Chúa Kitô tránh né Thập Giá, bây giờ thiên thần lại truyền cho những người phụ nữ đi báo tin, “Hãy đi nói với Phêrô.”
Vinh dự riêng ủy thác cho Phêrô trong đời sống của tập thể lại được tiếp tục trong sự sống lại. Nhưng cho dù Phêrô được nhắc đến với các Tông Đồ mà ông là đầu, Chúa đã hiện ra riêng với Phêrô trước khi Người tỏ mình ra cho các môn đệ trên đường E-mau: Đây là điều rõ ràng từ sự thật là các môn đệ sau đó nói Người đã hiện ra với Phêrô. Tin vui về ơn Cứu Chuộc đã được ban cho một phụ nữ đã từng sa ngã và cho người môn đệ đã từng chối bỏ Người; nhưng cả hai đã ăn năn thống hối.
Maria Ma-đa-lê-na, người đã ở trong tối tăm lại tiến bước đi trước những người đồng hành với bà, nhận ra là tảng đá đã được lăn ra bên cửa mồ, và cửa mồ mở toang. Liếc nhìn vào thì thấy ngôi mồ trống trơn. Ý đầu tiên của bà là nghĩ đến các Tông đồ, Phêrô và Gioan, bà đã chạy đi trong phấn khởi. Theo luật Mai-sen thì người phụ nữ không được phép làm nhân chứng. Nhưng Maria đã không mang tin vui về sự phục sinh; bà đã không nghĩ đến sự phục sinh. Bà nghĩ là Người vẫn còn bị nằm trói trong sự chết, như lời bà nói với Phêrô và Gioan:
"Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu." (Ga 20:2).
Trong số tất cả các môn đệ và những người theo Chúa chỉ có năm người “trông chừng”: ba người phụ nữ và hai người đàn ông, giống như năm người khôn ngoan trong dụ ngôn đi đón Tân lang. Tất cả những người này đề không có sự nghi ngờ về việc phục sinh.
Trong nỗi vui mừng cả Phêrô và Gioan đã chạy nhanh ra ngôi mộ, bỏ cả Maria lại phía sau. Gioan đã chạy nhanh hơn và đến mộ trước. Khi Phêrô đến nơi, cả hai người bước vào trong mộ, nơi họ đã nhìn thấy các khăn vải liệm xác được bỏ lại cùng chiếc khăn che phủ đầu của Chúa Giêsu; nhưng chiếc khăn lại không để cùng chỗ với vải liệm xác mà được gấp xếp gọn lại. Điều đã xẩy ra được làm cách cẩn trọng lớp lang, không phải bởi kẻ trộm cũng chẳng phải bởi một người bạn. Xác của Người đã biến mất khỏi mộ; những khăn vải cuốn xác của Người được thấy gấp xếp lại. Nếu các môn đệ đã lấy trộm xác của Người mang đi, thì trong sự vội vã họ đã chẳng có giờ để tháo cởi và để khăn vải liệm lại. Đức Kitô đã phục sinh trút bỏ những thứ đó do quyền lực của Thiên Chúa nơi Người. Phêrô và Gioan “Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết. Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà" (Ga 20:9).
Họ có sự thật và bằng chứng về sự Phục Sinh; nhưng họ chưa hiểu ra ý nghĩa đầy đủ của nó. Bây giờ Chúa Giêsu bắt đầu lần thứ nhất trong tất cả mười một lần hiện ra của Người được ghi lại giữa hai biến cố Phục Sinh và Lên Trời của Người: Đôi khi với các môn đệ, lúc khác là với năm trăm người cùng một lúc, và những khi khác là với mấy người phụ nữ. Lần hiện ra thứ nhất là với Maria Ma-đa-lê-na, người đã trở lại thăm mộ sau khi Phêrô và Gioan đã rời khỏi đó. Ý tưởng phục sinh như chưa đến trong suy nghĩ của bà, dù chính bà đã chỗi dạy khỏi cái mồ của bẩy thần dữ tội lỗi. Tìm thấy mộ trống, bà lại bật khóc nước mắt tuôn trào. Bà cúi mặt khi ánh bình minh chiếu xuống thảm cỏ đầy sương, bà thấy như có ai đứng gần cất tiếng hỏi:
Tại sao bà lại khóc? (Ga 20:13).
Bà đã khóc về mất mát, nhưng câu hỏi của Người đã cất đi cái thảm sầu của nước mắt bằng việc làm cho bà ngừng khóc. Bà nói:
“Người ta đã lấy Chúa của tôi đi mất, và tôi không biết họ để Người ở đâu.” (Ga 20:14).
Không có sự sợ hãi khi thấy các thiên thần, vì cả thế giới có bùng cháy cũng chẳng lay chuyển được bà, nỗi buồn sầu đã làm chủ tâm hồn bà. Khi nói lời này, bà quay lại và thấy Chúa Giêsu đứng đó; và bà không biết đó là Người. Bà nghĩ là người làm vườn của ông Giuse A-ri-ma-thi-a. Nghĩ là người này có thể biết nơi họ cất xác của Chúa, bà qùi gối năn nỉ:
"Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về." (Ga 20:15).
Tội nghiệp cho Ma-da-lê-na! Đã mệt mỏi trong ngày thứ Sáu, rã rời ngày thứ Bẩy, với cuộc sống bấp bênh bao quanh và sức lực yếu đuối như sợi chỉ, thế mà bà vẫn còn muốn đến để “lấy xác của Người.” Ba lần bà đã nói đến Người mà không cần gọi rõ tên của Người. Tình yêu đối với Người nơi bà thật mạnh đến độ cho thấy nói như thế có nghĩa là không còn ai khác nữa hơn là Người.
Chúa Giêsu nói với bà:
“Maria.” (Ga 20:15)
Giọng nói đó đã làm giật mình hơn tiếng gầm của sấm sét. Bà đã từng nghe Chúa Giêsu nói là Người gọi chiên của Người bằng chính tên của nó. Và lúc này chính Người, Người đã tư hữu hóa tất cả các tội lỗi, sầu khổ và nước mắt trong thế gian và khắc ghi nơi từng tâm hồn với tình yêu riêng tư, cá biệt, và sáng suốt, bà quay lại, nhìn thấy những dấu đinh đỏ tỏa sáng trên tay và chân của Người, đã thốt lên một lời:
“Rabbuni!” (Ga 20:16)
Tiếng Do Thái nghĩa là “Thầy!” Chúa Kitô đã cất tiếng gọi “Maria” và tất cả trời cao được gói gọn trong đó. Sau cái tăm tối nửa đêm của trí khôn, đã có được ánh sáng lộng lẫy này; sau nhiều giờ trong vô vọng, thì có niềm hy vọng này; sau cuộc tìm kiếm, thì đây là cái khám phá ra; sau sự mất mát, thì đây là cái tìm thấy. Ma-đa-lê-na đã được chuẩn bị chỉ để được trào dâng dòng lệ tôn kính bên ngôi mộ; cái mà bà đã không được chuẩn bị là được thấy Người đi tản bộ giữa lúc ban mai.
Chỉ có sự tinh tuyền và sạch tội mới có thể chào đón tất cả sự thánh thiện của Con Thiên Chúa nơi trần gian; vì thế mà Đức Trinh Nữ Maria đã gặp Người trước ngưỡng cửa trần gian ở Beth-lem. Nhưng chỉ một người tội lỗi đã cải thiện, người đã chỗi dạy khỏi ngôi mộ của tội lỗi để đến với sự sống mới trong Thiên Chúa, mới có thể xứng hợp để hiểu được sự chiến thắng tội lỗi. Để vinh danh cái vinh dự của nữ giới thì phải muôn đời nhìn nhận: Một phụ nữ đã gần gũi nhất với cây Thánh Giá trong Ngày Thứ Sáu Thánh, và trước tiên bên ngôi mộ của buổi sáng Phục Sinh.
Maria Ma-đa-lê-na đã luôn từng ở gần bên chân Chúa. Bà đã ở đó để xức dầu an táng cho Người; bà đã đứng dưới chân Thập Giá; bây giờ trong nỗi vui mừng trông thấy Thầy, bà đã phủ phục ôm lấy chân của Người. Nhưng Người nói với bà trong cách ngăn cản:
Đừng chạm đến Thầy vì Thầy chưa về cùng Cha Thầy (Ga 20:17).
Những biểu hiện yêu thương của bà dành cho Người vẫn còn như là đối với một Con Người hơn là đối với Con Thiên Chúa. Do đó Người đã ngăn cản bà đừng động đến Người. Thánh Phao-lô có thể cũng đã dạy cho giáo đoàn Cô-rin-tô và Co-lô-sê như vậy:
Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Ki-tô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa. (II Cor 5:16).
Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới (Colose 3:2).
Nước mắt của bà, Người nói, được lau sạch không phải vì bà đã được gặp lại Người, nhưng vì Người là Chúa của Trời cao. Khi Người lên ngự bên hữu Chúa Cha, đó là biểu hiện cho quyền lực của Chúa Cha; khi Người sai Thánh Thần Chân Lý đến, Đấng sẽ là Nguồn An Ủi mới và là sự Hiện Diện của Người ở bên trong, thì lúc đó bà mới thực sự được Người, Đấng bà mỏi mong tìm kiếm – là Đức Kitô phục sinh vinh hiển. Đó là tín hiệu đầu tiên Người báo cho biết, sau khi sống lại, ở trong quan hệ mới của Người với con người, điều mà Người đã nói rất rõ ràng lưu loát ở Bữa Tiệc Ly. Người cũng sẽ dạy cho các môn đệ bài học giống như vậy, vì họ đã qúa suy nghĩ theo kiểu loài người, qua cách Người nói với họ rằng việc Người ra đi là điều cần thiết. Ma-đa-lê-na đã muốn ở gần bên Người trước khi Người bị đóng đinh, và quên rằng việc chịu đóng đinh là để cho sự vinh quang và để Chúa Thánh Thần đến.
Tuy Ma-đa-lê-na bị từ chối bởi việc ngăn cấm này của Chúa Cứu Thế, bà vẫn được cảm nghiệm sự ca tụng trong sứ vụ mang tin mừng Phục Sinh của Người. Mấy ông đã nắm bắt được ý nghĩa của ngôi mộ trống, nhưng không nắm bắt được sự liên hệ về ơn Cứu chuộc và sự chiến thắng tội lỗi và sự dữ. Ma-đa-lê-na đã đập bể bình dầu thơm qúi giá là sự Phục Sinh của Người nhờ đó dầu thơm có thể loan tỏa khắp thế gian. Người đã nói với bà:
Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: "Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em". (Ga 20:17).
Đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu gọi các môn đệ là “Anh em của Thầy.” Trước khi con người trở nên người anh em thừa nhận của Con Thiên Chúa, thì họ phải được cứu chuộc khỏi tình trạng thù nghịch với Thiên Chúa.
Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga 12:24).
Người đã dùng việc đóng đinh trên Thánh giá để nhân cấp hóa vai trò làm Con của Người đến những người con khác của Thiên Chúa. Nhưng có sự rất khác biệt giữa Người là Con chính thức và nhân loại là những người nhờ Thánh Thần của Người làm cho trở nên những người con được tiếp nhận vào. Bởi vậy, Người luôn thận trọng phân biệt “Cha Ta” và “Cha các ngươi.” Không bao giờ trong suốt cuộc đời Người lại nói “Cha của chúng ta” giống như tình liên hệ đồng hàng giữa Người và nhân loại; tình liên hệ của Người với Chúa Cha thật đặc biệt và không thể thông truyền được; Tình nghĩa Cha Con thuộc về thiên tính của Người; loài người là con cái Thiên Chúa chỉ do bởi ơn thánh và được thừa nhận.
Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giê-su, và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em, khi nói: Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội Dân Người, con xin dâng tiến một bài tán dương. (DT 2:11)
Người cũng chẳng sai Maria báo cho các Tông Đồ rằng Người đã sống lại nhưng mà là Người sẽ lên trời cùng Cha. Biến cố phục sinh ám chỉ đến việc Lên Trời, sẽ đến bốn mươi ngày sau đó. Mục đích của Người không phải chỉ là nhấn mạnh đến Người đã chết và bây giờ sống lại, nhưng đây chỉ là khởi điểm cho một Vương Quốc sẽ được tỏ lộ và kết nạp khi Người sai Thánh Thần của Người đến.
Vâng lệnh, Maria Ma-đa-lê-na đã mau mắn đi gặp các môn đệ đang còn “khóc than”. Bà nói với họ là bà đã nhìn thấy Chúa và báo cho họ biết những lời Người đã nói với bà. Lời báo tin của bà đã được đón nhận thế nào? Lại một lần nữa trong ngờ vực, hoài nghi, và không tin. Các Tông Đồ đã nghe Người nói qua hình ảnh, biểu tượng, dụ ngôn, và thẳng thắn rõ ràng về sự Sống Lại xẩy ra sau cái chết của Người, nhưng:
Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin. (Mc 16:11)
Bà Evà đã tin lời con rắn; nhưng các môn đệ đã không tin Con Thiên Chúa. Với Maria Ma-đa-lê-na và các người phụ nữ khác nói về sự Phục sinh của Người, họ đều không tin:
Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Gio-an-na, và bà Ma-ri-a, mẹ ông Gia-cô-bê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông Đồ như vậy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin. (Lc 24:10-11)
Đây chính là tiên báo về cách mà thế giới sẽ đón nhận tin về ơn Cứu Chuộc. Maria Ma-đa-lê-na và các người phụ nữ khác thoạt đầu cũng đã không tin về việc Sống Lại; họ cũng phải được thuyết phục. Các Tông Đồ cũng đã chẳng tin. Câu trả lời của họ là “Quí vị biết họ là đàn bà mà! Lúc nào cũng tưởng tượng mơ màng!” Từ xa xưa trước khi có khoa tâm lý, người ta đã e dè sợ để trí khôn của họ làm mê hoặc lừa ảo họ. Sự hoài nghi của thời đại hôm nay trước cái ngoại thường không thể so sánh với sự hoài nghi xẩy ra ngay khi nghe tin báo về sự Sống Lại. Điều mà những người hoài nghi ở thời đại ngày nay nói về câu truyện Phục Sinh, thì chính các môn đệ đã là những người đầu tiên nói rồi, nó chỉ là câu truyện đồn thổi nhảm nhí. Như những người cho là không thể tin được từ thời Kitô giáo lúc ban đầu, với sự đồng thuận các Tông đồ đã cho là toàn câu truyện là một ảo tưởng. Phải có điều gì đó rất đặc biệt đã xẩy ra, và điều gì đó rất cụ thể làm chứng cớ để cho những con người hoài nghi này tin mà không còn nghi ngờ nữa.
Sự hoài nghi của các môn đệ còn khó thuyết phục hơn là sự hoài nghi của những người hoài nghi ở thời đại hôm nay, bởi vì sự hoài nghi của họ khởi sự từ một niềm hy vọng đã bị dập tắt trên đồi Can-va-ri-ô; điều này còn khó được chữa lành hơn là cái hoài nghi của con người thời đại, những người không có sự trông đợi kỳ vọng nào. Không gì xa hơn sự thật cho bằng việc nói là những người môn đệ của Chúa đã mong mỏi sự sống lại và, do đó, họ đang sẵn sàng tin ngay lập tức hoặc thấy được sự an ủi ngay đối với một điều mất mát dường như không thể hồi phục. Chưa một ai hoài nghi từng viết bất cứ điều gì về sự Phục Sinh mà Phêrô và các vị Tông Đồ khác đã không có trong tâm trí của họ. Khi Mohammed chết, Omar đã chạy ngay vào căn lều của ông, cầm kiếm trong tay, và tuyên bố rằng ông sẽ giết bất cứ ai nói là Tiên tri Mahommed đã chết. Nhưng trong trường hợp của Đức Kitô, thì người ta biết chắc chắn là Người đã chết, và là điều bất đắc dĩ để tin là Người vẫn sống. Nhưng có lẽ họ được cho phép có hoài nghi, nhờ thế mà các Kitô hữu của những thế hệ sau có thể tin mà không bao giờ còn phải hoài nghi nữa.
Sau khi các phụ nữ đã đi báo cho các môn đệ, những người lính gác, họ đã đứng canh bên cửa mồ, đã chứng kiến việc Sống Lại, đi vào thành Giêrusalem và nói với các thượng tế Do Thái tất cả những điều đã xẩy ra. Các Thượng tế lập tực hiệu triệu Hội Đồng Kỳ Mục, trình bày chủ mưu mua chuộc những người lính gác.
Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, và bảo: "Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự." Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay. (Mt 28:12-15)
“Món tiền mua chuộc” qúa béo bở so với ba mươi đồng bạc mà Giuđa nhận được. Hội Đồng Kỳ Mục không chối bỏ việc Sống Lại; thật đúng là chính họ lại mang cái bằng chứng sự thật không thiên vị. Và cùng cái chứng cớ đó họ đem nói với những người dân ngoại qua Philatô. Họ đã lấy cả tiền của đền thờ để trả cho những người lính Roma, những người mà họ chẳng ưa thích gì; làm như thế chỉ vì họ đã tìm thấy một người họ căm ghét hơn. Họ không động đến số tiền mà Giuđa đã mang trả lại vì đó là “tiền máu.” Nhưng bây giờ họ lại mua chuộc sự gian trá để lẩn tránh sự thanh luyện của Máu Con Chiên.
Tiền mua chuộc những người lính gác thực sự là cách rất ngu xuẩn để trốn tránh sự thật về việc Sống Lại. Trước tiên, là vấn đề phải làm gì đối với Xác của Người sau khi các môn đệ đã lãnh lấy đưa đi chôn. Điều duy nhất mà những kẻ thù nghịch của Chúa phải làm để chứng minh không có việc Sống Lại của Chúa là đòi lại cái xác của Người cho người ta xem. Không thể tin là tất cả những người lính gác đã ngủ quên khi canh gác; thật ngớ ngẩn để nói chuyện ấy đã xẩy ra lúc họ đang ngủ; và tuy là ngủ, họ lại qúa tỉnh táo đến nỗi họ đã thấy kẻ trộm đến và biết đó là các môn đệ. Nếu tất cả các người lính canh gác đã ngủ, họ sẽ không thể nào biết là có kẻ trộm; nếu một vài người lính gác tỉnh thức, thì họ đã phải ngăn chặn việc đánh cắp. Cũng thế nếu vài môn đệ nhút nhát muốn đánh cắp xác của Chúa đưa ra khỏi mồ đã bị đóng niêm kín bởi tảng đá, và có lính canh gác, sao việc trộm đó lại có thể không làm họ thức giấc. Việc sắp xếp gọn gàng những tấm khăn liệm cũng chứng minh rằng Xác của Chúa đã không được các môn đệ trộm lấy đi.
Các môn đệ của Chúa chẳng có lý do gì để lén mang trộm xác của Chúa đi, và cũng chẳng ai trong các môn đệ đã nghĩ đến việc này. Khi đó đối với họ, cuộc đời của Chúa đã là sự thất bại và thua trận. Kẻ chủ mưu dùng tiền mua chuộc thì nặng tội hơn là là người nhận tiền mua chuộc; vì những người thuộc Hội Đồng Kỳ Mục học cao hiểu rộng và là những người có quyền trong đạo; các lính canh gác là những người đơn sơ không được học hành. Việc Chúa Sống Lại được chính thức công bố cho những vị lãnh đạo dân; Hội Đồng Kỳ Mục tin có sự Sống Lại trước cả các môn đệ. Họ đã mua cái hôn của Giuda; bây giờ họ nghĩ là họ có thể mua sự thinh lặng của những người lính gác.
Cũng buổi sáng Phục Sinh hôm ấy, Chúa đã hiện ra với hai môn đệ trên đường về làng Ê-mau, không cách xa Giêrusalem là mấy. Trước đó chẳng bao lâu họ vẫn chan chứa hy vọng, nhưng bóng tối của đêm Thứ Sáu khổ nạn và việc mai táng trong mồ đã làm cho họ thát đảm phiền sầu. Không có đề tài nào nóng bỏng hơn trong tâm trí của họ ngày hôm đó cho bằng Con Người của Đức Kitô. Khi họ đang hàn huyên với lòng nặng trĩu lo âu về những điều mới xẩy ra trong vài ngày qua, thì một Người lạ tiến đến gần họ. Tuy vậy, mắt của họ nhắm nghiền nên không nhận ra đó là Chúa Cứu Thế Phục Sinh; họ nghĩ Người cũng chỉ là một người khách bộ hành. Khi câu truyện được từ từ mở ra, nó trở nên rõ hơn lý do họ không nhận ra Người là vì họ không tin; giả như họ trông mong được thấy Người, thì có thể họ đã nhận ra Người. Vì họ tha thiết với Người, Người sẽ chiếu cố đến họ; vì họ đã nghi ngờ về việc Sống Lại cho nên Người đã dấu đi niềm vui và không cho họ thấy sự hiện diện của Người. Bây giờ thân xác Người đã được vinh quang, cái mà con người nhìn thấy nơi Người tùy thuộc ở ý của Người muốn tỏ hiện cho họ và cho tâm tình trong lòng của họ. Dù Họ không biết Chúa, họ vẫn sẵn sàng nói về Người với người khách lạ. Sau khi nghe họ kể, người khách lạ hỏi:
Khi đi trên đường, các ông bàn chuyện gì thế? Họ dừng lại, vẻ mặt buồn thảm. (Lc 24:17)
Lý do cho sự buồn thảm của họ là vì họ đang thương tiếc Chúa. Họ đã theo Chúa Giêsu; họ đã thấy Người bị bắt, bị hành hạ, bị đóng đinh, và được chôn cất. Sự buồn sầu cũng tràn ngập lòng của người phụ nữ khi bà bị mất người bà yêu mến; nhưng các ông thì sững sờ trong trí hơn là trong tim về cùng một sự mất mát. Cái buồn của họ là buồn vì giấc mơ sự nghiệp của họ bị tan vỡ.
Chúa Cứu Thế với sự khôn ngoan vô cùng đã không bắt đầu bằng lời, “Tôi biết tại sao các ông buồn.” Phương cách của Người là dẫn lối đưa họ ra; một tấm lòng đang đau buồn được an ủi nhất khi nó được làm cho vơi nhẹ. Nếu sự đau buồn của họ có ngôn từ để nói, Người có tai và hé mở để nghe. Nếu họ chia sẻ và nói ra nỗi đau, Người sẽ đổ dầu chữa lành cho họ.
Một trong hai người, tên là Cleophas, lên tiếng nói. Ông đã lấy làm ngạc nhiên vì người khách lạ tỏ ra không biết gì về điều đã xẩy ra trong những ngày qua.
Không lẽ ông là người duy nhất ở Giêrusalem đã không nghe biết gì về chuyện đã xẩy ra trong những ngày qua? (Lc 24:18).
Chúa Giêsu Phục Sinh hỏi: Điều các ông nói nghĩa là gì? (Lc 24:19)
Người gợi lại cho họ chú ý đến những sự thật. Đúng là họ đã không đi sâu đủ vào các chi tiết để có thể kết luận đúng. Phương thuốc chữa trị nỗi đau của họ là chính những cái đang làm họ rối loạn, để nhìn những điều đó đúng theo như những gì liên quan. Như với người phụ nữ bên bờ giến, Người đã đặt câu hỏi, không phải để lấy tin tức, nhưng là để cho họ hiểu hơn về Người. Thế rồi, không phải chỉ có Cleophas mà cả người bạn của ông thay nhau kể cho Người về những gì đã xẩy ra. Họ nói:
Đức Giê-su hỏi: "Chuyện gì vậy? " Họ thưa: "Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy." (Lc 24:19-24).
Những người này đã mang hoài bão cho những điều lớn, nhưng Thiên Chúa, họ nói, đã làm cho họ thất vọng. Con người vẽ họa đồ và hy vọng là Thiên Chúa sẽ đóng chấm cho bản họa đồ của họ; sự thất vọng thường là do bởi cái ảo vọng tầm thường của con người. Những bản họa đồ ban đầu bây giờ bị xé bỏ, không phải vì qúa lớn lao, nhưng bì theo quan điểm của Thiên Chúa chúng qúa bé nhỏ. Cánh tay đập bể cái ly của những ước muốn nhỏ nhoi đã trao cho họ cái chén phong phú hơn. Họ nghĩ là họ đã tìm được Đấng Cứu Chuộc trước khi Người bị đóng đinh, nhưng thực sự thì họ đã khám phá ra một Đấng Cứu Chuộc bị đóng đinh. Họ đã mơ có được một Đấng Cứu Chuộc của Israen, nhưng lại không muốn Đấng Cứu Chuộc đó cũng là của dân ngoại. Chắc chắn họ đã nghe Người nói nhiều lần là Người sẽ bị đóng đinh và sống lại, nhưng họ đã không thể đưa nghịch cảnh vào trong ý nghĩ của họ về Người. Họ có thể tin Người là Thầy dạy, như một nhà chính khách Thiên Sai, một nhà cải cách đạo đức, một cứu tinh của tổ quốc, một người giải phóng dân khỏi đế quốc Rôma, nhưng họ không thể tin vào cái ngu dại của Thập Giá; Họ cũng chẳng có lòng tin của tên trộm cướp cùng bị treo trên thập giá. Bởi thế họ từ chối không nhìn nhận bằng chứng mà những người phụ nữ đã nói với họ. Họ cũng nghi ngờ là các bà đó đã thực sự thấy thiên thần. Rất có thể đó chỉ là một hiện tượng. Thêm nữa, chuyện xẩy ra đã ba hôm rồi, và Người thì họ chưa nhìn thấy. Thế nhưng với tất cả như thế trong khi họ đang cùng sánh bước và hàn huyên với Người.
Dường như có hai mục đích trong việc hiện ra của Đấng Cứu Thế sau khi sống lại, một là để tỏ cho thấy Đấng chết đi nay đã sống lại, và hai là mặc dù Người mang cùng thân xác đó, bây giờ thân xác ấy được vinh quang và không còn bị lệ thuộc bởi những ràng buộc của thể lý nữa. It lâu sau, Người đã ăn với các môn đệ để chứng minh là Người đang sống; và bây giờ với Madalêna người Người đã nói đừng chạm đến Người, Người nhấn mạnh đến trạng thái phục sinh của Người.
Với hai môn đệ này và các môn đệ khác, không có sự chuẩn bị trước để đón nhận sự Phục Sinh của Người. Bằng chứng về sự sống lại phải được đưa ra để chống lại sự ngờ vực và sự cương quyết phủ nhận bởi tính con người. Họ thộc số những người sau cùng thế gian để tin cái chuyện hoang tưởng ấy. Một người có thể nói là họ đã bằng lòng chịu khổ, không tìm hiểu về khả tín của câu truyện. chống lại cả lời chứng của các phụ nữ và lời xác quyết của những người đã tìm đến để xác minh câu truyện của họ, lời sau cùng là họ vẫn chưa tận mắt xem thấy Người sống lại.
Thế rồi Chúa Phục Sinh nói với họ:
"Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24: 25-26).
Họ bị coi là khờ khạo và chậm hiểu, bởi vì giả như họ chịu ngồi để tìm hiểu vể những điều mà các tiên tri đã nói về Đấng Thiên Sai – nghĩa là Người sẽ bị điệu đi như con chiên bị đem đi giết – thì họ đã được vững vàng trong đức tin. Tin vào con người mà không tin vào Thiên Chúa là dấu của những con tim ngu muội; mau mắn tin theo các phỏng đoán và chậm chạp tin vào thực tế là dấu của những con tim ươn hèn. Thế rồi tiến đến những lời chính trong cuộc hành trình. Trước đó Chúa đã nói Người là Đấng Chăn Chiên Lành, Người đến để hiến mạng sống cứu chuộc nhiều người; bây giờ trong vinh quang, Người công bố một đạo luật mà kết quả do đau khổ của Người mang lại cho con người đó là họ được nâng lên khỏi tình trạng tội lỗi để cùng chia sẻ với Thiên Chúa.
Thánh giá là điều kiện để đến vinh quang. Chúa Cứu Thế đã nói đến sự cần thiết luân lý đặt nền tảng trên sự thật là mọi điều xẩy đến với Người đều đã được báo trước. Cái đối với họ dường như là một việc mất lòng, một xỉ nhục, một thất bại, đầu hàng trước cái không thể tránh thoát được, thì đó lại là một khoảng khắc tối tăm đã được nhìn thấy trước, được xếp đặt và được loan báo. Dù là đối với họ, cây Thập Giá như không thể xứng hợp với vinh quang của Người, đối với Người thì nó lại là con đường đã được hoạch định để đi qua. Và giả như họ biết Thánh kinh đã nói về Đấng Thiên Sai, thì họ đã phải tin vào cây Thập Giá.
Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được. (Lc 24:27).
Người đã cho họ thấy đủ mọi điều nói về Người và tất cả các nghi thức, các lễ tế đã được nên trọn nơi Người. Trích dẫn từ I-sai-a, Người tỏ cho thấy về cách Người chết, chịu đóng đinh và những lời cuối của Người từ trên Thập Giá; từ tiên tri Da-ni-en, cách Người trở nên ngọn núi lấp đầy mặt đất; từ Mai-sen, cách Người như con rắn đồng được treo lên để chữa trị con người khỏi sự xấu, và cạnh sường của Người là khe đá từ đó nước chảy ra trao ban sự sống; từ I-sai-a, cách Người được sinh ra nơi Bê-lem; và từ những chỗ khác Người đã cho họ chìa khóa đối với mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa nơi con người và mục đích của Người đến trần gian.
Cuối cùng thì họ đã đến E-mau. Người làm ra vẻ vẫn phải tiếp tục cuộc hành trình, cũng giống như trước đây khi bão tố trên biển hồ, Người đã giả đò làm như vẫn bước đi qua con thuyền của các môn đệ. Hai môn đệ, tuy thế, đã mời Người dừng chân ở lại với họ. Những người có suy nghĩ tốt về Thiên Chúa trong ngày sẽ không dễ đầu hàng khi màn đêm buông xuống. Họ đã học được khá nhiều, nhưng cũng biết là họ chưa học được hết mọi điều. Họ vẫn chưa nhận ra Người, nhưng đã có chút ánh sáng lóe lên về Người như tia hy vọng dẫn họ đến một sự tỏ hiện đầy đủ hơn và làm tan đi sự mờ tối nơi họ. Người đã nhận lời mời là khách của họ, nhưng ngay lập tức Người lại hành xử như một chủ nhà:
Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. (Lc 24:30-31).
Việc cầm bánh và bẻ ra trao cho các ông không phải đơn giản chỉ là một việc làm xã giao lịch sự, vì việc đó qúa giống như điều các ông đã thấy ở Bữa Tiệc Ly lúc mà Người truyền cho các Môn Đệ làm để nhớ đến cái Chết của Người khi Người bẻ bánh là chính Thân Thể của Người và trao cho họ. Ngay khi nhận được Bánh Thánh Bí Tích đó được bẻ ra, mắt tâm hồn của họ đã mở ra. Như mắt của Adam và Evà đã mở ra để thấy hổ thẹn sau khi ăn trái cấm biết lành biết dữ, thì bây giờ mắt của các môn đệ đó được mở ra để nhận định được Thân Thể của Đức Kitô. Bối cảnh cùng tương đồng với Bữa Tiệc Ly: Cả hai lần đều có việc dâng lời tạ ơn; nhìn lên trời; bẻ bánh; và trao bánh cho các môn đệ. Việc trao bánh đem lại nhận thức rõ hơn tất cả những dẫn giải khác. Việc bẻ bánh đã dẫn họ đến cảm nghiệm Chúa Kitô phục sinh vinh hiển. Ngay lúc đó Người biến đi khỏi mắt họ. Quay sang nói với nhau, họ suy luận:
"Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao? " (Lc24:32).
Ảnh hưởng của Người trên họ thuộc cả hai lãnh vực cảm nghiệm và trí hiểu: cảm nghiệm, trong trạng thái lòng họ thấy bừng nóng lên với tình yêu; và trí hiểu, trong lãnh vực giúp họ hiểu ra hàng trăm lời tiên báo về việc Người đến. Con người tự nhiên có khuynh hướng tin rằng những gì thuộc tín ngưỡng phải khác thường và rất quyền lực không thể tưởng tượng được. Tuy vậy, biến cố trên đường E-mau này đã cho thấy những chân lý mạnh mẽ nhất thường xuất hiện ở nơi bình thường và những sự cố nho nhỏ trong cuộc sống, giống như cuộc gặp gỡ một khách bộ hành trên đường đi. Nhận biết về Người đã đến khi họ cùng đi với Người; và nhận biết rằng vinh quang đến qua lối thất bại. Trong cuộc sống chiến thắng vinh hiển của Người cũng như trong cuộc sống công khai, Thánh Giá và vinh quang cùng sánh bước bên nhau. Không phải chỉ có giáo huấn của Người được nhớ lại; mà là những đau khổ và những đau khổ đó cần thiết thế nào cho sự vinh hiển của Người.
Các môn đệ lập tức quay trở lại Giêrusalem. Giống như người phụ nữ bên bờ giếng đã qúa vui mừng bỏ cả vò nước lại bên bờ giếng, thì những môn đệ này cũng đã quên cái mục đích cho cuộc hành trình đi E-mau của họ và quay trở về Thành Thánh. Ở đó họ gặp lại mười một Tông Đồ đang hội họp, cùng với những môn đệ khác. Họ kể lại tất cả sự việc đã xẩy ra trên đường đi E-mau và cách họ đã nhận ra Người lúc bẻ bánh.