Những bậc thầy nổi tiếng truyền dạy cho các đồ đệ của họ, nhưng có ông thầy nào đã từng dùng cái chết của mình để làm mẫu mực cho môn đồ của họ không? Điều này không thể có, vì không một ông thầy nào ở trần gian đã có thể biết trước về cách họ chết và cái chết cũng chẳng bao giờ là lý do họ đến để truyền dạy. Socrates, với tất cả sự khôn ngoan của ông, đã chẳng bao giờ nói với các đồ đệ trẻ của ông ở Athens uống nước độc cần, bởi vì ông sẽ chết vì nó. Nhưng Chúa Giêsu đã lấy Cây Thập Giá làm nền tảng giáo huấn của Người đối với các Môn Đệ. Sự thật này thường bị bỏ qua, và trong một thời gian chính các Môn Đệ cũng bỏ sót, và vì thế mà quan điểm trung thực của Đức Kitô bị lu mờ. Ngay cả khi Người hành xử như một Thầy Dạy, Người đã dùng cây Thập Giá như bóng rợp bao quanh các Môn Đệ. Đau khổ mà họ sẽ phải lãnh chịu sẽ giống như đau khổ mà Người sẽ trải qua. Người đã được nhận diện là Chiên Thiên Chúa Đấng sẽ bị hiến tế vì tội lỗi của thế gian; và vì họ được nhận diện với Người, Người cảnh báo về số phận của họ:
Hãy cẩn trọng, Thầy sai anh em đi như chiên giữa bày sói (Mt. 10:16).
Họ cần nhận thức được tính thay lòng đổi dạ của con người. Khi Người làm cho bánh hóa ra nhiều, đám đông đã ngay tức khắc tìm cách tôn Người làm vua của họ, thay vì coi phép lạ như một dấu chỉ về Thiên Tính của Người. Ngay từ lúc vừa bắt đầu công việc rao giảng, khi Người làm những phép lạ, lòng qúi mến của các môn đệ cũng rất nông cạn. Và Gioan viết:
Nhưng chính Đức Giê-su không tin họ, vì Người biết họ hết thảy, và không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con người. (Ga 2:24-25)
Họ sẽ đón nhận Người như một người làm được những việc kỳ lạ trước mắt họ, nhưng không như Sự Sáng cho linh hồn của họ. Người sẽ không để mình rơi vào bất cứ tính nhẹ dạ nông cạn trên căn bản của sự kỳ lạ. Biết là sự hâm mộ đám đông dành cho Người sẽ trở nên cái cớ mà chính đám đông ấy chống lại Người chỉ trong vài ngày, Người đã nói với các Môn Đệ:
Hãy coi chừng, người ta sẽ trao nộp anh em ra trước quan tòa . . . (Mt 10:17)
Như Người đã không có những ảo tưởng viển vông về việc thế gian sẽ đối xử với Người, thì Người cũng chẳng có những ảo tưởng viển vông về những người liên kết thân cận nhất với Người như những cành của cây nho. Không một đạo sĩ hay ẩn sĩ, không Đức Phật hay Khổng Tử nào đã từng nghĩ là giáo thuyết của họ sẽ gây ra sự chống đối của con người đến nỗi đưa đến cái chết tức tưởi cho họ; nhưng quan trọng hơn nữa, không một thầy dạy trần thế nào đã từng nghĩ là các môn đồ của họ cũng sẽ đồng số phận khổ nhục, chỉ vì những người ấy là đồ đệ của họ. Cảnh huống bình thường không bao giờ gây nên oán hận như thế; thú vật bình thường cũng chẳng giết đồng loại của chúng; con người bình thường cũng không xử với nhau như thế. Nhưng con người, với nghĩa cao qúi giữa vật chất và tinh thần, lại có khả năng tàn phá cả hai; họ nhổ cây và giết hại thú vật là những thứ thấp kém hơn họ nơi phẩm tính. Nếu như, trong sự kiêu căng, họ coi Thiên Chúa là một đối thủ, thì họ sẽ chối bỏ Người; và nếu Thiên Chúa trở nên con người yếu đuối thì họ sẽ đóng đinh Người. Nhưng Chúa của chúng ta không ngại vẽ ra cảnh tượng Đóng Đinh cho các môn đệ của Người, như Người đã vẽ ra cảnh tượng Đóng Đinh cho chính Người.
Cái thuộc về thế gian thì thế gian sẽ không chống. Cái thuộc về Thiên Chúa, thì tinh thần thế gian sẽ chống lại, phỉ báng, bắt bớ và đóng đinh. Giá cứu chuộc Người phải trả cho nhân loại sẽ đưa Người đến hai tòa án công bình; giữa hai phiên tòa, Người sẽ bị đánh đòn trừng phạt. Các Môn Đệ và những người theo Người sau này cũng đồng số phận như thế mà không trông được khá hơn:
Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết. (Mt 10:17-18)
Các Tông Đồ còn chưa bị bắt bớ, họ cũng chưa thấy khó chịu cho lắm trước khi có biến cố Đóng Đinh và Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Nhưng Người đã cho họ biết cách mà họ sẽ bị đối xử sau này. Không lường trước được điều sẽ xẩy đến cho Người, làm sao họ có thể hình dung ra điều sẽ xẩy ra cho họ? Sự thù ghét của thế gian, Người cảnh báo, sẽ bị ẩn che; họ sẽ bị tố cáo dưới những dạng luật pháp, bị đem bêu xấu trước tòa công luận, bị kết án theo “chủ thuyết thống trị” hay “đất loạn luân.” Cảm thức công bình nơi lòng con người thật sâu đậm, đến ngay những việc làm thật vô cùng bất công, đó là những kẻ gian ác đội lốt công chính. Không phải là những kẻ cuồng tín mù tối sẽ bắt bớ; đúng hơn là con người sẽ lập án hình sự để chống lại họ, các môn đệ của Người, như người ta đã chống lại chính Người. Tuy trong cái mặt nạ và dưới dạng của các tòa án công bình, lý do chính cho sự thù ghét là lòng dạ xấu xa của họ.
Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa." (Ga 3:19-21)
Người thế gian không bắt đầu với chủ trương thù ghét Sự Sáng, bởi vì Chân Lý thuộc về trí khôn như ánh sáng thuộc về con mắt. Nhưng khi Ánh Sáng tỏa chiếu cho linh hồn của họ và phơi bày tội lỗi của họ ra, họ trở nên thù ghét nó như kẻ cướp ngân hàng ghét ánh sáng đèn soi của cảnh sát chiếu thẳng vào mặt hắn. Sự thật mà Người mang đến, con người nhận thấy khi công bố sự đồng minh của họ, vì họ được tạo dựng để làm như thế; nhưng bởi vì họ đã đổi bản tính của mình bằng lối hành vi xấu xa, chân lý của Người khuấy động lương tâm họ và họ ghét nó. Tất cả lối sống của họ, những gian xảo dối trá, và những đam mê thấp hèn thúc dục họ bạo động chống lại Ánh Sáng. Nhiều người ốm đau không chịu đi khám bệnh, vì họ sợ bác sĩ sẽ nói điều họ không thích nghe. Do đó Người nói với họ là Người không phải là loại ông thầy chỉ muốn môn đệ của Người nói theo như con sáo; Người là Vị Cứu Thế trước hết là khuấy động lương tâm và thanh tẩy nó. Nhưng nhiều người không vượt ra khỏi trạng thái thù ghét đối với người khuấy động. Ánh Sáng không ích gì, trừ khi họ là những người có thiện ý; cuộc sống của họ có thể xấu, nhưng ít nhất là họ muốn sự thiện. Người nói, sự hiện diện của Người là một đe dọa cho khoái cảm, ham danh lợi, và mê nhục dục. Khi một người sống lâu năm trong hang động, mắt của họ không thể chịu được ánh sáng mặt trời; nó cũng giống như vậy với người từ chối hoán cải và quay lại chống đối tình thương. Không ai có thể ngăn cản mặt trời chiếu sáng, nhưng người nào cũng có thể kéo tấm màn xuống để che cản ánh sáng.
Chúa còn nói với họ rằng trong vấn đề bị bắt bớ chống đối vì Người, họ không phải bận tâm lo lắng sẽ trả lời kẻ bắt bớ họ thế nào. Không có những lời lẽ được ghi chép sẵn, không cần có bài bản được biên soạn. Người hứa sẽ nói với họ qua Thần Khí của Người.
Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em. (Mt 10:19-21)
Nói trước cho biết, mà không bảo họ cách thức thế nào, Người sẽ bị phản bội bởi một người thân cận với Người, Người cho họ thấy khá hơn về Thập Giá bằng cách nói với họ rằng những người phản bội sẽ là những người ở ngay trong nhà, anh em sẽ phản nhau.
Mọi người sẽ ghét anh em vì danh Thầy (Mt 10:22)
Những con bò chở hòm bia từ đất của người Phi-li-tinh được hiến dâng cho Thiên Chúa như một hiến tế. Việc làm như thế được coi là phần thưởng được Người nhìn nhận. Như thánh Phaolô giải thích:
Quả thế, nhờ Đức Ki-tô, anh em đã được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì Người. (Phil 1:29).
Nhưng như trong đời sống của Người đã không hề có “Giờ” của Can-vê mà không có “Ngày” của Vinh Thắng, do đó sự thất bại cũng không là vĩnh viễn:
Ai bền vững đến cùng sẽ được cứu rỗi (Mt 10:22).
Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình. (Lc 21:18).
Giữ được linh hồn mình nghĩa là làm chủ bản thân như bí quyết của an bình nội tâm, như được phân biệt với hàng ngàn bứt rứt gây nên lo sợ, mất hạnh phúc và chán nản. Chỉ khi làm chủ được linh hồn thì mọi cái khác mới hạnh phúc. Điều Chúa nói ở đây có nghĩa là sự nhẫn nại trong lúc nghịch cảnh, thử thách, và bắt bớ. Vào thời điểm ba tiếng đồng hồ treo trên Thập Giá, Người đã làm chủ được linh hồn khiến Người có thể trao dâng lại cho Cha trên trời.
Vào lúc đó, những lời dành cho các Môn Đệ, Người đã nói rõ lý do Người đến để chết chứ không phải để sống, do đó họ cũng cần phải chuẩn bị để chết chứ không phải để sống. Nếu thế gian trao cây Thập Giá cho Người, thì họ cũng phải chờ đón một cây thập giá; nếu thế gian nói Người bị qủi cả ám, thì họ cũng có thể chờ đợi để bị coi là “những thằng qủi con.”
"Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bê-en-dê-bun, huống chi là người nhà. (Mt 10:24-25)
Nhưng quyền ám hại không bao giờ ảnh hưởng đến linh hồn của các Môn Đệ. Như việc Sống Lại của Người là bằng chứng cho điều đó, bây giờ Người trao ban cho họ như một bảo chứng trước. Thân xác có thể bị thương tổn mà không có sự đồng thuận của linh hồn, nhưng linh hồn không thể bị thương tổn mà không có sự ưng thuận của chính nó. Mối lo sợ duy nhất không phải là mất xác, nhưng là mất sự sống đời đời với Thiên Chúa.
"Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục. (Mt 10:28)
Sẽ có biện minh bào chữa cho những vu khống họ phải chịu; và tất cả những điều bị dấu kín sẽ được bày tỏ ra. Tình thương của Thiên Chúa quan phòng dành cho đàn chim sẻ và những sợi tóc trên đầu chúng ta đã được đếm và đều được Thiên Chúa biết đến trong sự quan phòng của Người. Người cảnh giác họ không sống là những “môn đệ bí mật,” không dung hòa, cũng chẳng qúa “cấp tiến” trong việc tuyên xưng Thiên Tính của Người. Trở nên can trường như Người đã diễn hành công khai vác Thập Giá trước mắt họ, Người đã dùng hình ảnh cây gươm làm thí dụ. Người sẽ không phải là người giao hòa theo bề ngoài; và họ cũng thế. Khi họ rao giảng về Người, họ sẽ gây nên sự chống đối và tạo ra nguyên cớ cho các kẻ thù nghịch với Đấng Tốt Lành rút gươm ra:
"Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.33 Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. (Mt 10:32)
"Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. (Mt 10:34)
Có hai loại gươm: những lưỡi gươm đâm chém bên ngoài và tàn sát, và những lưỡi gươm đâm nội tâm làm xâu xé tâm hồn. Điều Người có ý nói là mục đích của Người đến là gây hấn với những cây gươm của kẻ thù. Giacôbê đã nghe những lời này về cây gươm và sau này đã tìm hiểu ý nghĩa rõ ràng, khi Hêrode dùng gươm để hạ sát ông, ông trở nên môn đệ đầu tiên lãnh ơn tử vì đạo. Simone Wail đã tóm tắt những lời của Chúa rằng Ai dùng gươm thì sẽ chết vì gươm, nói như thế có nghĩa là “người dùng Thập Giá thì sẽ chết bởi lưỡi gươm,” bởi vì cây Thập Giá sẽ tạo nên sự chống đối.
Thêm nữa, các Môn Đệ đã được báo cho biết là những người tin nhận Người sẽ bị gia đình ghét bỏ. Tin mừng sẽ gây nên sự bất hòa giữa những người đón nhận Chúa và những người chối từ Người. Người mẹ không tin Chúa sẽ chống lại người con gái tin theo Chúa, và người cha không tin Chúa sẽ chống lại người con trai tin theo Chúa, do đó những kẻ thù nghịch cay đắng nhất lại là những người trong nhà. Nhưng họ không nên nghĩ đây là một sự mất mát. Có hai sự sống; sự sống thể lý và sự sống tâm linh. Tertuliano nhận định rằng khi những người Roma tàn sát các Kitô hữu ban đầu, những người vô đạo luôn khuyên can: "Hãy cứu lấy mạng sống của mình, đừng vứt bỏ nó đi.” Nhưng như Người tự nộp mình chịu chết và người sống lại, thì cái mà họ mất nơi thể lý, họ sẽ giữ được ở tâm linh. Cái được dâng hiến cho Chúa sẽ không bao giờ bị mất đi. Họ đã không hiểu điều Người nói, nhưng Người đã tóm lại cho họ thêm một lần nữa về cây Thập Giá và Sự Sống Lại:
Ai giữ mạng sống mình thì sẽ bị mất nó; còn ai liều mất mạng sống mình vì Ta, sẽ giữ được nó. (Mt 10:39)
Các Môn Đệ thường gặp những người Roma đang chiếm đóng đất nước của họ và thấy người Roma đóng đinh rất nhiều người đồng hương của các người. Những lời của Chúa ám chỉ tập tục những phạm nhân vác thập giá trước khi bị đóng đinh. Cây Thập Giá là vấn đề quan trọng trong đời Người, là lý do để Người đến, lại được làm sáng tỏ một lần nữa khi Người mời họ đến với việc đóng đinh. Không thể nghĩ là Người lại mời họ đến chỗ chết trừ khi Người đã muốn điều đó cho chính Mình như Con Chiên bị đem đi giết ngay từ khi mới tạo thành vũ trụ. Sau này, Phêrô và Anrê hiểu điều Người có ý nói, khi họ cũng chịu đóng đinh.
Ngay sau lễ Thánh Thần Hiện Xuống, khi Đức Kitô sai Thần Khí của Người đến trên các Môn Đệ, ý nghĩa đầy đủ của việc Đóng Đinh được sáng tỏ đối với Phêrô, và ông đã tóm lược điều đã nghe được trước khi có biến cố ở Can-vê mà Chúa đã chỉ dạy:
Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giê-su ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi. (CV 2:23-24).
Cây Thập Giá không bao giờ là một tai nạn không ngờ xẩy ra cho Chúa; nó cũng không phải là tai nạn không ngờ cho họ và cho những ai tin theo Người sau này.