Đức Kitô, Con Thiên Chúa, đã đến trần gian để cứu con người, mọi dân tộc và tất cả nhân loại. Tuy đây là mục đích chính, chương trình của Người thoạt đầu chỉ giới hạn Tin Mừng nơi những người Do Thái. Sau này sứ vụ của Người mới trở nên hoàn vũ, và bao gồm tất cả dân ngoại nữa.
Đức Giê-su sai mười hai ông ấy đi và chỉ thị rằng: Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Samaria. Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en. (Mt 10:5-6).
Hướng đi rõ nhất của các môn đệ là tránh những người dân ngoại. Ngày nay thì những người dân ngoại là lớp người ở các nước “truyền giáo.” Ngay cả những người Samaria cũng bị xa tránh vì họ thuộc loại dân lai giòng giống Do Thái và Assyrian. Chỉ thị rõ cho họ tự giới hạn trước hết là cho dân thuộc Nhà Israen cho thấy sự thật là Người đã chọn mười hai tông đồ, tương xứng với mười hai chi họ Israen. Nhớ đến liên hệ theo thứ tự này khiến Phêrô ngập ngừng khi ban phép rửa cho Cornelius, viên sĩ quan người Roma. Vì làm thế, người đòi phải có sự vụ lệnh rõ ràng từ Thiên Chúa.
Bất kể sự đòi hỏi tiên khởi này đối với các Tông Đồ, Chúa đã có sự liên kết với những người ngoại giáo; Người cũng đã làm những phép lạ cho họ. Cho dù những phép lạ này không trả lời đầy đủ cho vấn nạn khi nào thì Chúa chính thức bắt đầu sứ vụ toàn vũ, nhưng chúng cũng là dấu chỉ cho thấy về điều ấy.
Dấu đầu tiên trong ba liên đới mà Chúa có liên kết với dân ngoại liên quan đến sứ vụ dành cho họ, là đối với viên đội trưởng người Rô-ma; thứ hai là con gái của người đàn bà Syro-Phoenicia; và thứ ba là với cậu bé bị qủi ám ở miền Gerasenes. Có nhiều những yếu tố tương đồng trong cả ba phép lạ này.
Hai phép lạ đầu được thực hiện từ khoảng cách xa xa. Có lẽ viên đội trưởng là người lính Rôma đóng ở Ca-phar-na-um. Theo sinh quán ông thuộc giới dân ngoại. Rất có thể, giống như ông Cornelius, người đã được Phêrô rửa tội, và giống như viên eu-nuch người của Hoàng Hậu Ethiophia, ít ra là đã có thiện cảm với những người tôn thờ Thiên Chúa. Viên đội trưởng Rôma này đã ở trong đất nước thời gian lâu dài đủ để biết là có bức tường ngăn cách giữa người Do Thái và người Dân ngoại. Điều này giải thích cho thấy rằng khi người đầy tớ lâm bệnh nặng đang nằm chờ chết ở nhà, ông đã không đích thân đến với Chúa, nhưng:
ông cho mấy kỳ mục của người Do-thái đi xin Người đến cứu sống người đầy tớ của ông. (Lc 7:3)
Chắc là Chúa đã phải tỏ ra hơi lưỡng lự để làm phép lạ, vì thánh Luca nói là những người kỳ mục đã khẩn khoản nài xin Người (Lc 7:4)
Thánh Augustinô sau này nói: “Tự cho là bất xứng để Đức Kitô bước vào nhà, ông đã xứng đáng để Chúa bước vào tâm hồn ông.”
Viên đội trưởng người dân ngoại đã so sánh quyền lực của Chúa với uy quyền của ông trên những người lính thuộc hạ. Chính ông cũng là viên chỉ huy với hàng trăm quân lính dưới quyền, ông đã mặc cả được; nhưng Chúa là Vua Caesar đích thật, hay là Hoàng Đế, viên chỉ huy tối cao trên hết mọi quyền uy, mọi thần thánh phải tuân lệnh của Người. Như thế đương nhiên là Người không cần phải vào tận trong nhà của ông để làm phép lạ; người dân ngoại này cho rằng Người chỉ cần ra lệnh ngay tại nơi Người đang hiện diện. Phép lạ đã xẩy ra, như lời kêu cầu của viên đội trưởng, từ đàng xa. Suy nghĩ về đức tin của người ngoại này và nghĩ đến đức tin từ những nơi truyền giáo, nơi mà Người so sánh với căn nhà truyền giáo hiện tại đó, Chúa đã nói:
Tôi bảo thật, ngay cả trong dân Ít-ra-en, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế." (Lc 7:10)
Người ngoại đầu tiên nhận được lời khen ngợi của Chúa về đức tin của ông đã là một trong số những con cái của Thiên Chúa rải rác khắp nơi trên thế giới đã từ từ được qui tụ lại nhờ ơn Cứu Độ.
Phép lạ thứ hai được Chúa thực hiện cho một người ngoại là việc chữa lành cho con gái của người đàn bà xứ Syro-Phoenicia. Sự miễn cưỡng làm phép lạ cho viên đội trưởng chỉ hiểu ngầm ý, nhưng ở đây Chúa chối thẳng, có lẽ Người làm như thế là để thử đức tin của bà. Phép lạ đã xẩy ra trong vùng Tyre và Sidon. Thánh Chrysotom và những nhà chú giải khác đã cho rằng Chúa đã rời khỏi các ranh giới của những miền mà sau này được biết như là vùng truyền giáo. Người đàn bà được miêu tả là đến từ miền Canaan và là người Syro-Phoenica. Do đó bà hoàn toàn không thuộc về người gốc Do Thái. Khi bà xin một ân huệ cho con gái của bà theo như lời bà kể “bị ma qủi dằn vặt khổ lắm,” Chúa không đáp lại một lời. Các môn đệ nói với Người: Hãy đuổi bà đi, vì bà ta gây to tiếng phiền phức qúa. (Mt 15:23)
Các môn đệ đã không xin Người làm phép lạ cho bà; họ chỉ muốn bà đừng quấy rầy họ nữa, để cho họ yên. Khi bà tiếp tục van xin và sụp lạy Người, Chúa đã thử đức tin của bà bằng một lời thật nặng:
Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó. (15:26)
Con cái mà Chúa nói đến ở đây dĩ nhiên là người Do Thái. Từ ngữ “chó” ở đây tỏ ra rất khinh bỉ, và là lời nói mà người Do Thái thường ám chỉ khi nói về những người dân ngoại.
Như viên đội trưởng người Roma đã phải chờ đợi, thì người đàn bà này cũng phải chịu một sỉ nhục. Tuy nhiên bà đã trả lời với một đức tin thật tuyệt hảo:
Thưa Người, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống." (Mt 15:27)
Người đàn bà này đã nói với Chúa: “Tôi bằng lòng nhận lấy cái danh nghĩa này và ám chỉ của nó: vì ngay cả lũ chó con cũng được ăn những cái rơi xuống từ bàn của Ông Chủ; chúng có thể không được đầy đủ những thức ăn được bày ra cho dân Israen, nhưng lũ chó con cũng sẽ được một phần; và nó vẫn đến từ bàn của Ông Chủ.” Bà đã kêu nài là bà thuộc về gia đình của Ông Chủ, cho dù địa vị của bà thấp hèn hơn. Theo như danh nghĩa mà chính chúa đã dành cho bà, bà không phải là ngoại kiều. Và bởi chấp nhận cái danh nghĩa đó, bà cũng có thể coi mình được quyền hưởng những gì ám chỉ bao gồm trong đó:
"Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy." (Mt 15:28)
Như ông Giuse xưa đã tỏ thái độ khó khăn với các anh trong chốc lát, Chúa Cứu Thế đã không kéo dài sự khinh thường của người đối với bà, và Người đã chữa lành cho con gái của bà, cũng từ đàng xa.
Giao tiếp thứ ba của Chúa với những người dân ngoại đã xẩy ra khi Người đi vào vùng thôn quê ở Gerasenes. Một người bị qủi ô uế ám đã đi ra từ mồ mả đến gặp Người. Bối cảnh nơi xẩy ra đó chính là Decapolis, một lãnh thổ phần đông là dân ngoại. Josephus đã nói đó là Gerasa một thành phố của Hy Lạp. Sự thật hiển nhiên là dân chúng ở vùng đó nuôi heo lại càng cho thấy họ không phải là những người Do Thái. Có thể họ là những người Do Thái khinh bỏ lề luật của Mai-sen.
Chủ thuyết biểu tượng có thể gắn liền với sự thật là ở miền đất thuộc dân ngoại, Chúa đã đối diện với những bất ổn và quyền lực còn tồi tệ hơn là những cái khuấy động sóng gió và thân xác con người. Ở đây có cái còn kinh khủng và đáng sợ hơn là những yếu tố thiên nhiên, cái có thể mang lại sự nhầm lẫn, hỗn loạn và tàn phá nội tâm con người. Ở nơi viên đội trưởng và người phụ nữ Syro-Phoenicia đã thấy có một đức tin lành mạnh. Nhưng nơi người thanh niên này chẳng thấy gì ngoài sự thống trị của ma qủi. Hai người ngoại kia đã nói lên tiếng lòng của họ trong sự tôn kính đối với Chúa. Trái lại ở chỗ này, thì thần khí xa lạ, thần khí đã sa ngã, bắt người thanh niên lên tiếng xác định thần tính của Chúa.
Lạy ông Giê-su, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông? Tôi xin ông đừng hành hạ tôi! (Lc 8:28).
Khi Chúa Cứu Thế giải thoát người thanh niên khỏi kềm kẹp của thần dữ và cho phép nó nhập vào đàn heo, những người dân trong vùng đã yêu cầu Chúa đi ra khỏi vùng đất của họ. Tinh thần tư bản, ở hình thức tồi tệ nhất, họ cảm thấy việc tái tạo tình nghĩa của một linh hồn đối với Thiên Chúa chẳng đáng so với sự mất mát đàn heo của họ. Trong khi những người cư ngụ ở Gerasenes yêu cầu Chúa rời khỏi vùng đất của họ, người ở vùng Samaria, những người tội lỗi, thì lại mời Chúa ở lại với họ.
Ba trường hợp này liên quan đến những nơi truyền giáo là những trường hợp ngoại lệ đối với chương trình của Chúa đó là ơn cứu chuộc phải đến với dân Do Thái trước, và Người phải giới hạn việc giảng dạy của người lúc đó chỉ cho những con chiên lạc nhà Israen mà thôi.
Những trường hợp gặp gỡ bất thường này với người dân ngoại không đủ để tạo nên một nguyên tắc truyền giáo có tính hoàn vũ. Đàng khác, nó cũng không thể được cho rằng Chúa quay sang với dân ngoại chỉ vì dân riêng của Người khước từ Người, giống như là tất cả những người khác đã chẳng hề được Người quan tâm nghĩ đến trước đó. Người biết là đến một thời điểm Người sẽ mất hết những người lãnh đạo và đám đông theo Người. Đúng như thế, điều này đã xẩy ra ngay sau phép lạ làm cho bánh hóa nhiều. Ngay sau đó, Chúa đã không thể cậy nhờ vào một người qúi tộc nào hay một người Do Thái đã từng đi theo Người trong đám đông. Dù vậy, Người vẫn tiếp tục giảng dạy cho dân riêng của Người, chứ không phải là cho dân ngoại.
Chúa Cứu Thế của chúng ta đã không dùng bất cứ trường hợp nào trong ba trường hợp liên quan đến người dân ngoại để truyền cho các môn đệ của Người đem Tin Mừng ra khỏi giới hạn trong dân Do Thái. Tuy nhiên, vẫn có sự liên kết rõ ràng và tiềm ẩn giữa những người dân ngoại và lý do Người đến. Điều đáng chú ý là ở những trường hợp nơi đã có những dấu chỉ mạnh mẽ và nói đến cái chết và ơn Cứu Chuộc của Người, thì cũng đã có một số liên quan đến những người dân ngoại. Ngoài ba trường hợp phép lạ cho người ngoại đó, thì cũng đã có ba trường hợp mà những người dân ngoại đã liên quan gần gũi với Người. Mỗi trường hợp đã có liên quan khi nói đến cuộc Khổ Nạn và cái chết cùng sự vinh quang của Người.
Trường hợp thứ nhất là lúc Người chào đời. Các mục đồng đại diện cho sứ vụ đối với người trong nhà; Ba Vua đại diện cho sứ vụ truyền giáo nơi những miền đất xa. Do Thái và dân ngoại cả hai đến bên máng cỏ; nhưng việc đến với dân ngoại này lại trùng hợp với việc âm mưu tìm giết hại Người. Triều đại của Thiên Chúa mới vừa chớm nở thì vua Herôđê đã tìm cách dập tắt đi, bằng cách ra lệnh tàn sát tất cả các bé trai dưới hai tuổi. Và Herođê đã chất vấn chính những người dân ngoại khi họ đến hỏi ông liên quan đến lời tiên tri về ngôi sao lạ xuất hiện ở Bethlem. Bóng sự chết đã ngả ngay xuống trên hài nhi Giêsu rồi.
Trường hợp thứ hai liên hệ gần gũi đến dân ngoại trong đời của Chúa là khi những người Hy Lạp đến tìm gặp Người, qua trung gian của Philip và Anrê. Trong trường hợp này, Chúa đã không nhắc đến lời tiên tri của sách Do Thái (vì những người Hy lạp không biết); thay vào đó, Người đã trích dẫn luật tự nhiên, luật của hạt giống.
Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga 12:24)
Như những nhà thông thái (ba vua) đến từ dân ngoại đã tìm thấy sự Khôn Ngoan bên máng cỏ, thì những người khôn ngoan từ dân ngoại bây giờ lại học được luật hiến tế: nghĩa là bởi chết đi, sự sống mới được phát sinh. Chúa càng đến gần Cây Thập Giá của Người thì những người dân ngoại lại càng đến gần bên Người hơn. Bây giờ là lần thứ nhất họ bắt đầu xuất hiện đến với đoàn tùy tùng của Người. Trong trường hợp này, những người thuộc dòng Socrates, Aristotle, và Plato, Chúa đã bắt đầu nói về vinh quang của Người:
Đã đến lúc Con Người được vinh quang (Ga 12:23).
Trường hợp thứ ba những người dân ngoại liên hệ gần gũi với Người là vào lúc Người chịu đóng đinh. Người đã bị xử trước tòa Roma, và vợ của một quan tổng trấn đã bầu cử cho Người, bởi vì bà đã cảm thấy ray rứt trong giấc mộng. Simon thành Cyrene, người theo dõi con người này trên đường đi đến chỗ chịu chết, đã bị cưỡng ép giúp Người vác thập giá. Đã có ít nhất một trăm lính Roma hiện diện chứng kiến cảnh Người chịu đóng đinh, vì một viên đội trưởng chỉ huy ít nhất là bằng đó số quân lính. Chưa bao giờ có nhiều người dân ngoại và vô đạo ở chung quanh bên Chúa như là lúc Người chịu chết. Nhìn đến giây phút đó, sau khi các phép lạ của Người đã không thuyết phục được con người tin nơi Thiên Tính của Người, Người đã lấy Cây Thập Giá như là lời tranh biện cuối cùng. Bây giờ Con Người được nâng lên, Người bắt đầu lôi kéo mọi người đến với Người. Người đã nói rõ là “mọi người” mà Người sẽ lôi kéo, chứ không phải là chỉ có những người ở Judêa và Galilêa. Ngay lúc Người nói lời trao hiến sự sống của Người, Người đã nói thêm:
Tôi còn có những chiên khác không thuộc đàn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. (Ga 10:16)
Cái chết của Đức Kitô đã là sự nhận thức về Nước Thiên Chúa cho toàn thể thế giới. Cho đến thời điểm nơi đồi Can-vê, con người đã được dạy bảo bởi việc giảng dạy. Sau biến cố của đồi Can-vê, họ được dạy bởi việc Sống Lại và Lên Trời của Người. Nguyên tắc phổ quát hoàn vũ lúc này trở nên có hiệu lực. Chính cái chết của Đức Kitô đã phá đổ bức tường ngăn cách giữa người Do Thái và Dân Ngoại để tỏ bày sứ vụ hoàn vũ của Đấng Cứu Thế, điều đã được ám chỉ đến trong Cựu Ước. Cần phải có Gongotha để hoàn vũ hóa sứ vụ của Đức Kitô. Sứ vụ truyền giáo đến các xứ dân ngoại là hoa trái của cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Kitô. Còn chứng cớ nào vĩ đại hơn điều này, đó là không phải sau khi sự sống lại và lên trời của Người khiến cho sứ vụ truyền giáo được truyền ban sao:
Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, (Mt 29:19).
Bây giờ những người dân ngoại đi đến với cái là của riêng họ, không phải chỉ những người ở trước thời điểm Chúa đến, nhưng cả những người sống ở những thời sau này cho đến ngày Chúa đến trong Vinh Thắng sau cùng của Người. Và sẽ đến một ngày khi:
Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, (Mt 12:41)
Những người dân ngoại thời Solomon, và nhất là những người của Nữ Hoàng xứ Sheba, sẽ giơ thẳng tay khiển trách người Do Thái vì họ đã không tin vào cái chết của Đức Kitô giống như những người dân ngoại đã tin.
Vùng đất của Tyrê và Sidon đã làm ra một người phụ nữ của lòng tin sẽ nhận được phán xét nhân nhượng hơn là những người ở Carphanaum, nơi đã từng là cái nôi nằm cho Đấng Chài Lưới Người:
Đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xi-đôn còn được xử khoan hồng hơn các ngươi. Còn ngươi nữa, hỡi Ca-phác-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ! (Mt 11:22-23).
Ngay cả Sođôma, một thành đồng nghĩa với mọi thứ ô uế xấu a, cũng sẽ được xét xử nhân nhượng hơn dân Israen, là những người được đón nhận mặc khải cách riêng:
Vì nếu các phép lạ đã làm nơi ngươi mà được làm tại Xơ-đôm, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, đất Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn các ngươi." (Mt 11:24).
Như với tương lai, thì tất cả dân ngoại sẽ được chia sẻ ơn phúc nhờ cái Chết và sự Sống Lại của Chúa.:
"Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. (Mt 15:31-32).
Nếu Giả như Chúa chỉ là một nhà giảng thuyết hay một nhà giáo, thì sẽ chẳng bao giờ có những chương trình truyền giáo đi đến với các nước dân ngoại. Đức tin sẽ chẳng bao giờ được truyền đi khắp thế giới. Tin mừng mà những nhà truyền giáo mang đi, không còn là một thiên hùng sử của một dân riêng nào, nhưng là ơn Cứu Độ trải rộng đến toàn thể nhân loại. Từ giây phút trên đồi Can-vê, sứ vụ truyền giáo đã thuộc về Đức Kitô chứ không thuộc hoàng tử của thế gian nữa. Một vị vua khác đã bước vào chiếm lấy những người dân ngoại. Sự khác biệt chính giữa Cựu và Tân Ước chỉ là lãnh vực phạm vi. Cựu ước được giới hạn cách riêng cho một dân tộc, nhưng máu của Giao Ước Mới đổ ra trên đồi Can-vê đã phá đổ bức tường phân cách giữa dân Do Thái với mọi dân tộc khác.
Hiến tế của Đức Kitô có tính hoàn vũ trong ba cách: thời gian, nơi chốn, và uy quyền. Đối với thời gian thì hiệu lực của nó không bị giới hạn ở một thế hệ hay ân điển:
Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. (1Phr 1:20).
Nơi chốn là hòan vũ, vì hiệu quả do cái chết của Đức Kitô không bị giới hạn nơi một dân tộc nào:
"Người xứng đáng lãnh nhận cuốn sách và mở ấn niêm phong, vì Người đã bị giết và đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước, mọi dân. (KH 5:9).
Sau cùng, uy quyền của Người cũng trong tính hoàn vũ, vì không có tội lỗi nào mà ơn Cứu Chuộc Của Người không thể xóa bỏ đi:
Máu Đức Giê-su, Con của Thiên Chúa, thanh tẩy chúng ta sạch hết mọi tội lỗi. (1Gio 1:7).
Trên Cây Thập Giá, Đức Kitô đã biến sứ vụ của Người nên Hoàn Vũ. Các nhà truyền giáo càng sống gần với thánh giá của họ thì họ càng chu toàn sứ vụ này của Người đối với các dân tộc.