Trong suốt Tin Mừng, giống như tiếng sấm sét, bất cứ chỗ nào có tiên báo của Thánh Giá, thì cũng có ánh sáng của vinh quang phục sinh chớp loé lên; bất cứ khi nào có bóng dáng của cứu chuộc trong đau khổ, thì cũng có ánh sáng của tự do thiêng liêng tiếp theo. Sự bù trừ tương nghịch của niềm vui và khổ sầu trong cuộc đời đức Kitô được tìm thấy trong phép lạ tiên khởi xẩy ra ở ngôi làng nhỏ Cana. Đó là một phần tiêu biểu nơi Người, Đấng đến để rao giảng việc đóng đinh cái xác thịt lăng loàn, đã bắt đầu cuộc sống công khai của Người bằng việc trợ giúp ở một tiệc cưới.
Trong Cựu ước, tình liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Is-ra-en được so sánh giữa một tân nương và tân lang. Chúa Giêsu cũng dùng so sánh đó cho tình liên hệ giữa Người và dân Is-ra-en mới mà Người sẽ thiết lập. Người sẽ là Tân Lang, Giáo Hội của Người sẽ là tân nương. Bởi Người đến để thiết lập sự hiệp nhất giữa Người và khối nhân loại được cứu chuộc, thì đó là điều xứng hợp để Người bắt đầu sứ vụ công khai của Người qua việc làm trợ giúp ở một tiệc cưới. Thánh Phao-lô đã không giới thiệu một ý tưởng mới khi người viết cho giáo đoàn Ephêsô sau này để nói về sự liên kết hiệp nhất giữa một người nam và một người nữ là dấu chỉ liên kết hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Người.
“Các người chồng hãy thương yêu vợ, như Đức Kitô đã yêu thương Hội Thánh và hiến mạng sống vì Hội Thánh” (Eph 5:25).
Tiệc cưới là một dịp liên hoan; rượu được đưa ra tiếp khách như dấu của sự vui mừng hoan hỷ. Tiệc cưới ở Ca-na có dấu chỉ quan trọng, Thánh Giá không phủ bóng che niềm vui; đúng hơn là niềm vui đã đến trước, sau đó mới là Thánh Giá. Nhưng khi niềm vui hoan hỷ đã xong thì bóng của Thánh Giá phủ che bữa tiệc.
Chúa Giêsu đã được xác nhận là Chiên Thiên Chúa ở sông Gio-đan; Người cũng đã chọn năm môn đệ trong số những môn đệ của Gioan Tẩy Giả: Gioan Tông Đồ, Andrê, Phêrô, Philiphê và Nathanaen. Người đã đưa những người này đi dự tiệc cưới với Người. Tiệc cưới đã tiếp diễn và kéo dài vài ngày. Ở thời đó, cha của cô dâu có trách nhiệm nặng hơn ngày nay. Vì tiệc liên hoan và các chi phí có thể tiếp tục đến tám ngày. Một trong những lí do hết rượu có thể là Chúa Giêsu đã mang theo thêm nhiều khách cùng đến dự tiệc. Từ lúc đầy tràn phấn khởi ở sông Gio-đan, khi các tầng trời mở ra với tiếng nói xác nhận Người là Con của Thiên Chúa thì sự hiện diện của Người đã lôi kéo thêm hàng trăm người theo Người và họ cũng đến nơi đám tiệc. Người đến dự đám cưới không phải chỉ như một người thợ mộc trong làng, nhưng còn như cương vị là Đức Kitô hay là Đấng Cứu Thế. Trước khi màn tiệc vui kết thúc thì nó đã được tỏ lộ ra là Người có cuộc hẹn hò với cây Thập Giá.
Maria, Mẹ yêu dấu của Người, đã có mặt ở tiệc cưới. Đây là lần duy nhất trong cuộc đời của Chúa mà Mẹ Maria đã được nhắc đến trước người Con của mình. Maria chỉ là dụng cụ cho phép lạ, hay một dấu chỉ tiên khởi của Chúa nói lên Người là Đấng tự xưng nhận mình là ai, Người là Con Thiên Chúa. Mẹ đã là dụng cụ thánh hóa cho Gioan Tẩy Giả lúc ông còn đang ở trong lòng mẹ của mình; và bây giờ qua lời thỉnh cầu, Mẹ đã thổi vang lên tiếng kèn khởi sự cho một chuỗi những phép lạ, một lời thỉnh cầu qúa mạnh mẽ đến nỗi nó đã gây cảm hứng cho các tâm hồn ở mọi thời đại dùng danh của Mẹ để kêu xin khẩn cầu những phép lạ tự nhiên và ân sủng.
Gioan Tông Đồ, lúc đó đã được chọn làm môn đệ, và có mặt trong bữa tiệc; chính ông đã chứng kiến điều Đức Mẹ đã làm lúc ở Cana. Ông cũng có mặt với Đức Mẹ ở chân Thánh Giá, và chính ông đã cẩn trọng ghi chép lại cả hai biến cố trong Tin Mừng. Nơi đền thờ và ở sông Giođan, Chúa Giêsu đã nhận được chúc lành của Chúa Cha và ơn thánh hóa để bắt đầu sứ vụ cứu chuộc. Tại Cana, Người nhận được sự đồng thuận của người mẹ nhân loại. Sau này trong lúc cô đơn cùng cực trên đồi Can-vê, giờ phút tăm tối khi Chúa Cha dường như bỏ quên Người và Người đã dùng lời Thánh Vịnh kêu lên,
“Lạy Chúa! Lạy Thiên Chúa của Con, nhân sao Người bỏ Con?” (TV 21:1).
Ở lần khác khi Người dường như từ biệt xa cách Mẹ của mình:
“Thưa bà, đây là con bà” (Gioan 19:26).
Khi rượu được đưa ra để tiếp thêm ở Cana, thật thú vị để nhận thấy là Maria đã quan tâm hơn tới thực khách chứ không phải là người quản tiệc, vì chính Mẹ chứ không phải người quản tiệc đã nhận ra là họ cần thêm rượu. Mẹ Maria đã cầu cứu với Con Thánh của mình trong tinh thần cầu nguyện tuyệt hảo. Hoàn toàn tin nơi Người và tín thác vào tình thương của Người, Mẹ đã nói:
“Họ hết rượu rồi” (Gioan 2:3).
Đây không phải là một lời thỉnh nguyện riêng tư; Mẹ đã đóng vai là người trung gian cho tất cả những ai đang tìm kiếm niềm vui tràn trề. Mẹ không bao giờ chỉ là người quan sát, nhưng là người hoàn toàn tự ý vào cuộc để lo giúp đỡ các nhu cầu của người khác. Người mẹ thường dùng uy thế đặc biệt của mình đối với con, một quyền uy có do bởi tình yêu thương tương trùng. Chúa đã trả lời trong do dự:
“Việc của Mẹ đâu phải là việc của con. Giờ con chưa đến.”(Gioan 2:4).
Trước hết, hãy để ý đến những lời, “Việc đó liên quan gì đến Con và Mẹ?” Đây là cách nói trong tiếng Do Thái rất khó chuyển dịch. Thánh Gioan đã viết lại theo nguyên ngữ qua tiếng Hy Lạp, và bản tiếng La-tin cũng dịch theo nguyên ngữ Quid mihi et tibi, có nghĩa là, là gì với con và với mẹ? Tiếng ‘việc đó’ không có ở trong bản gốc; nó chỉ được thêm vào cho sáng nghĩa để dễ hiểu. Knox đã thoáng dịch như sau, “Tại sao mẹ lại liên lụy con vào việc đó?”
Để hiểu ý của Chúa cách trọn nghĩa hơn, hãy chú ý đến những lời, “Giờ Con chưa đến.” “Giờ” ở đây rõ ràng là ám chỉ đến Thánh Giá của Người. Bất cứ khi nào tiếng “Giờ” được dùng trong Tân Ước, nó đều có liên quan đến giờ Thương Khó, chết và sống lại vinh quang của Người. Những lần nhắc tới “Giờ” như vậy đã được nói đến bảy lần trong Tin Mừng Gioan thí dụ:
Bấy giờ họ tìm cách bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt, vì giờ của Người chưa đến. (Gioan 7:30).
Người đã nói những lời ấy, khi giảng dạy trong Đền Thờ, tại nơi đặt thùng tiền dâng cúng. Không có ai bắt Người, vì giờ của Người chưa đến. (Gioan 8:20).
Đức Giê-su trả lời: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! (Gioan 12:20).
"Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. (Gioan 12:27).
"Này đến giờ -và giờ ấy đã đến rồi- anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy (Gioan 16:32).
Nói thế xong, Đức Giê-su ngước mắt lên trời và cầu nguyện: "Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha (Gioan 17:1).
Do đó tiếng “Giờ” được dùng để nói đến sự vinh quang của Người qua việc chịu Đóng đinh, Sống lại và Lên trời. Ở Cana, Chúa Giêsu nhắc đến giờ ở Canvê và nói là thời giờ chỉ định để bắt đầu công việc cứu chuộc chưa đến. Mẹ của Người đã yêu cầu một phép lạ; và Người nói ám chỉ là phép lạ được làm như một dấu chỉ cho Thiên Tính của Người sẽ là khởi đầu cho Cái Chết của Người. Giây phút mà Người tỏ ra cho những người khác biết Người là Con Thiên Chúa, thì Người sẽ tự chuốc lấy sự thù ghét của họ đối với Người, vì sự dữ có thể chấp nhận cái tầm thường, nhưng không chấp nhận sự tốt lành tuyệt đỉnh. Phép lạ mà Mẹ yêu cầu không thể tránh khỏi việc liên hệ đến công việc Cứu Chuộc của Người.
Trong cuộc đời của Chúa có hai trường hợp khi tính nhân loại nơi Người dường như tỏ ra không muốn chấp nhận gánh nặng khổ đau. Nơi vườn cây dầu, Người đã xin với Chúa Cha nếu có thể được thì cất chén đắng đó đi cho Người. Nhưng ngay lúc đó Người hàng phục tuân theo ý của Chúa Cha: “Không theo ý Con, nhưng xin theo ý Cha.” Cùng cảm nghiệm không muốn làm đã được tỏ ra trước mặt Mẹ của Người. Cana đã được tập dượt chuẩn bị cho Gôn-gô-tha. Người đã không đặt vấn đề trong sự khôn ngoan đối với việc bắt đầu cuộc sống công khai và đi đến cái chết ở thời điểm đó. Đúng hơn là vấn nạn về việc nhân tính phải thuần phục chấp nhận Thập Giá. Có một sự song song tương đồng nổi bật giữa ý của Chúa Cha với cái chết công khai của Người và ý của Mẹ Người muốn Người làm đối với đời sống công khai của Người. Vâng lời đã chiến thắng ở cả hai trường hợp; ở Cana, nước đã được biến hóa thành rượu; và ở Can-vê, rượu đó trở thành máu.
Người đã nói với Mẹ rằng, thực ra là Mẹ đã công bố cái án tử hình trên Người. Rất ít bà mẹ gởi con đi ra các chiến trường; nhưng ở đây bà Mẹ ấy đã thực sự hối thúc để giờ đối kháng quyết tử của Người Con và các lực lượng thù địch đến nhanh. Nếu Người đồng ý với lời yêu cầu của Mẹ, thì Người sẽ bắt đầu giờ chết và vinh quang của Người. Tới Thập Giá, Người sẽ đi với hai mệnh lệnh, thứ nhất là từ ý muốn của Cha Người trên trời, và thứ hai là từ ý của Mẹ Người ở dương thế.
Ngay khi Người đồng ý để bắt đầu Giờ của Người, tức thì Người nói với Mẹ là tình liên hệ của Mẹ với Người từ lúc đó sẽ thay đổi. Cho đến lúc ấy, trong thời gian sống ẩn dật, Mẹ đã được biết là Mẹ của Giêsu. Nhưng bây giờ Người khởi sự công cuộc cứu chuộc, Mẹ sẽ không còn chỉ là Mẹ của Người, nhưng cũng là Mẹ của toàn thể các anh chị em mà Người sẽ cứu chuộc. Để cho thấy tình liên hệ mới này, Người đã nói với Mẹ không như là “Mẹ” thường, nhưng là bà “Mẹ Phổ Quát Hoàn Vũ” hay là “Bà.” Những lời đó là một rung động đối với những người của thời Cựu ước. Khi Adong sa ngã, Thiên Chúa đã nói với Satan cho hắn biết trước là Người sẽ đặt mối thù giữa giòng dõi của hắn với giòng dõi của “Người Phụ Nữ,” vì sự tốt lành cũng sẽ có miêu duệ tiếp nối như sự xấu xa. Thế gian không những chỉ có Thành đô của Con Người mà Satan tuyên bố như là của hắn, nhưng cũng có Thành đô của Thiên Chúa. “Người Phụ Nữ” cũng có miêu duệ, và Miêu Duệ của người phụ nữ đó bây giờ đang đứng ngay giữa tiệc cưới, Miêu Duệ đó sẽ ngã xuống đất và chết, sau đó sẽ nẩy sinh sự sống mới.
Lúc “giờ” đó đến, Mẹ trở nên “Người Phụ Nữ”; Mẹ cũng sẽ có những người con khác, không phải bởi máu huyết, nhưng bởi thần khí. Nếu Người là Adong mới, đấng sáng lập giòng dõi nhân loại được cứu chuộc, thì Mẹ sẽ là Evà mới và là Mẹ của nhân loại mới đó. Như Chúa Giêsu đã là người, thì mẹ là Mẹ của Người; và như Người là Đấng Cứu Thế, thì Mẹ cũng là Mẹ của tất cả những ai Người cứu chuộc. Gioan, người đã hiện diện ở tiệc cưới, cũng đã có mặt ngay lúc cao điểm của “Giờ” trên đồi Canvê. Ông đã nghe Chúa gọi mẹ là “Bà” phát ra từ trên Thập Giá và nói rằng, “Đây là con bà.” Điều này nói lên như Gioan là dấu chỉ về gia đình mới của Đức Mẹ. Khi Chúa Giêsu làm cho con của bà góa thành Naim chết được sống lại, Người đã nói, “Hãy trao cậu bé lại cho mẹ của nó.” Trên cây thánh giá, Người cũng đã an ủi Mẹ của Người bằng việc cho Mẹ một người con khác là Gioan, và cùng với Gioan là tất cả loài người được cứu rỗi.
Lúc sống lại, Người đã trao bản thân Người lại cho Mẹ, để tỏ cho thấy rằng trong khi mẹ được những người con khác, mẹ đã chẳng bao giờ mất Người. Ở Cana lời tiên báo của Simeon đã nói với mẹ nơi đền thờ đã được xác nhận: từ đó, bất cứ điều gì liên quan đến Người Con của Mẹ thì cũng sẽ liên quan đến Mẹ; bất cứ điều gì xẩy đến với Người cũng sẽ xẩy đến nơi Mẹ. Nếu Người được chỉ định đi đến thập giá, thì Mẹ cũng đến, và nếu lúc này Người bắt đầu cuộc sống công khai thì Mẹ cũng bắt đầu một cuộc sống mới, không chỉ còn là mẹ của ông Giêsu, nhưng cũng là mẹ của tất cả những người mà Giêsu, Đấng Cứu Thế, sẽ cứu chuộc. Người tự xưng là “Con của Người,” một danh hiệu ôm ấp toàn thể nhân loại; thì Mẹ cũng sẽ là “Mẹ của Nhân Loại.” Giống như Mẹ đã ở bên Người khi Người bắt đầu “giờ” của Người, thì Mẹ cũng ở bên Người lúc cao điểm khi hoàn tất “giờ” của Người. Lúc Mẹ đưa Người về từ đền thờ, Người mới mười hai tuổi, vì Mẹ cảm thấy giờ của Người chưa đến; Người đã vâng lời Mẹ và trở về Nazarét. Bây giờ ở Cana, Người nói với Mẹ là giờ của Người chưa đến, nhưng Mẹ đã bảo Người hãy bắt đầu, và Người đã vâng lời làm theo. Ở Cana, Mẹ đã trao Người đi như Đấng Cứu Chuộc những người tội lỗi; trên Thánh Giá Người đã trao Mẹ đi làm nơi nương ẩn cho những người có tội.
Khi Người nghĩ phép lạ đầu tiên chắc chắn sẽ dẫn người đến Thập Giá và cái chết, và Mẹ sẽ trở nên người Mẹ Đau Thương, Mẹ đã quay sang nói với người quản rượu: “Người bảo gì thì hãy làm theo.” (Gioan 2:5).
Thật là một diễn văn tuyệt vời! Từ đó, Mẹ sẽ không nói gì thêm nữa trong trong Thánh Kinh. Bẩy lần Mẹ phát biểu trong Thánh Kinh, nhưng bây giờ Đức Kitô đã xuất hiện, giống như mặt trời chiếu sáng đến tột đỉnh Thần Tính của Người, Mẹ của chúng ta đã sẵn lòng được phủ bóng giống như vầng trăng, như thánh Gioan sau này đã miêu tả về Mẹ.
Cả sáu bình chứa nước được đổ đầy, tổng cộng khoảng một trăm hai mươi ga-lông (480 lit), và trong cách nói hoa mỹ của Richard Crashaw, “Nước ý thức nhận ra Thiên Chúa và đã đỏ thẹn lên.” Phép lạ đầu tiên giống như việc sáng tạo; nó đã được thực hiện bởi quyền lực của “Ngôi Lời.” Rượu Người làm nên đã qúa ngon đến nỗi tân lang đã bị khiển trách bởi quản tiệc:
"Ai ai cũng thết đãi rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ." (Gioan 2:10).
Đúng vậy, rượu ngon nhất đã được giữ lại. Cho đến lúc ấy từ suốt thời gian được mặc khải tỏ bày, rượu xoàng đã là các tiên tri, các quan án, và các vua, cùng Abraham, Isaac, Jacob, Mai-sen, Jo-sue - tất cả đều như nước lã đợi chờ phép lạ của Đấng các dân tộc mong đợi. Thế gian thường cho đi trước những gì ngon sướng nhất; sau đó mới đến những thứ xoàng kém và đắng cay hơn. Nhưng Đức Kitô đã thay đổi ngược lại thứ tự đó và khoản đãi chúng ta bữa tiệc sau bữa chay, Sống Lại sau Tử Hình Thập Giá, niềm vui Ngày Chúa Nhật Phục Sinh sau nỗi khổ đau của Ngày Thứ Sáu Chịu Nạn.
“Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người.” (Gioan 2:11).
Thánh Giá ở khắp nơi. Khi một người vươn mình giang tay ra để nghỉ ngơi, họ đã vô tình tạo nên một mẫu hình cho lý do của việc Con Người đến. Cũng vậy, ở Cana, bóng cây Thập Giá được thoáng hiện ra trước mặt “Bà,” và tiếng “giờ” như tiếng chuông báo “tử hình.” Ở tất cả những trường hợp khác trong cuộc đời của Người thì Thập Giá đến trước, sau đó mới đến niềm vui. Nhưng ở Cana, thì niềm vui của hôn ước đến trước, đó là hôn ước giữa Tân Lang và Tân Nương của nhân loại được cứu rỗi; chỉ sau đó chúng ta mới được nhắc nhớ rằng Thập Giá là điều kiện cho sự sung sướng mê ly đó.
Bởi thế cái Người đã thực hiện ở tiệc cưới thì Người đã không thực hiện ở sa mạc. Người đã thực hiện trước sự chứng kiến của nhiều người cái mà Người đã từ chối không làm trước mặt Satan. Satan đã yêu cầu Người làm cho đá trở nên bánh để Người có thể trở nên vị cứu thế về kinh tế, và Người đã không làm; Mẹ của Người đã yêu cầu Người biến nước thành rượu hầu Người có thể trở nên vị Cứu Thế, Người đã đồng ý làm. Satan đã cám dỗ Người trốn tránh cái chết, và Người từ chối; Mẹ Maria đã “dụ” Người đi vào cái chết và sự sống lại và Người đã làm theo. Satan đã gắng đưa Người xa khỏi thập giá, nhưng Người không đồng ý. Mẹ Maria đã bảo Người đến với thập giá, và Người đã làm theo. Sau này, Người cầm lấy bánh mà Satan trước kia đã nói là con người cần phải có, và rượu mà Mẹ của Người nói là các khách dự tiệc đang thiếu, và Người đã biến đổi chúng trở nên việc tưởng niệm đến Cuộc Thương Khó và Cái Chết của chính Người. Và Người yêu cầu con người tiếp tục cử hành lễ tưởng niệm này, cho đến ngày tận thế. Khúc xướng ca của đời Người tiếp tục được vang lên: Mọi người sinh vào trần gian để được sống; Còn Người sinh vào trần gian để chết.