Một người càng đến gần Chúa họ càng cảm thấy bất xứng hơn. Một bức tranh được để dưới ánh nến sẽ để lộ ít khiếm khuyết hơn là để dưới ánh sáng của mặt trời; giống như thế, linh hồn của những người xa Chúa lại cảm thấy họ vững chắc không bị khiển trách luân lý hơn là những người sống gần bên Thiên Chúa. Những người rời bỏ ánh đèn màu rực rỡ của thế gian, và nhiều năm được tắm gội trong ánh sáng trước nhan Thiên Chúa, là những người luôn nhìn nhận họ đầy tội lỗi nặng nề bất xứng. Thánh Phaolô, một con người gương mẫu trong muôn người, đã coi mình là “người tội lỗi nhất trong các người tội lỗi.” Giữa những người thánh thiện nhất, linh hồn trở nên tự buộc tội và thống hối ăn năn vì những bất toàn của nó. Như những kẻ xấu cảm thấy tội lỗi của họ trước sự hiện diện của đứa trẻ đơn sơ vô tội hơn là lúc cùng đồng hành với những người cùng xấu như họ, thì người yêu mến Thiên Chúa cũng cảm thấy sự đè nặng bất xứng vì tội lỗi của họ khi họ gần bên Chúa.
Nhưng Chúa Giêsu, Đấng là một với Thiên Chúa, chẳng bao giờ xưng thú một tội hay một bất toàn nào. Do đó, nó thật vô nghĩa và ngu xuẩn để có thể đem sánh ví điều này cho Chúa, bởi vì việc Người phân tích tội lỗi nơi con người thật sâu thẳm. Ai là người ở thế gian này đã có thể mạnh dạn như Người đứng lên tuyên bố trước công chúng: Ai trong các ông có thể chứng minh được là tôi đã làm điều gì sai? (Ga 8:46).
Cho dù Chúa Giêsu giao lưu với những người tội lỗi, nhưng không hề có dấu nghi ngờ về sự vô tội của Người. Người dạy các môn đệ cầu nguyện “Xin tha nợ cho chúng con,” nhưng ngay cả lúc đau khổ ở phút chót Người cũng chẳng phải thốt ra một lời cầu xin tha nợ như thế cho mình. Người tha tội cho những người khác nhân Danh của chính Người: “Tội của ngươi được tha,” thế nhưng Người đã chẳng bao giờ phải xin ơn tha thứ cho chính mình. Người đã thách kẻ đánh Người, “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18:23). Vì Người vô tội, nên Người đã xác định địa vị của mình trước toàn thể nhân loại, như khi Người xưng mình là “Sự Sáng” của thế giới tối tăm:
“Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8:12).
Điều cần để ý là không phải giáo huấn của Người là ánh sáng thế gian, nhưng Chính Người là Ánh Sáng cho thế gian. Giống như chỉ có một mặt trời chiếu sáng trên thế giới về mặt tự nhiên, thì Chúa cũng quả quyết rằng chỉ có một Mình Người là Ánh Sáng của thế gian về mặt tinh thần, không có Người thì mọi linh hồn sẽ phải chìm đắm trong tối tăm. Như bụi trong căn phòng không được nhìn thấy cho tới khi có ánh sáng chiếu rọi vào, thì không người nào có thể biết mình cho đến khi Ánh Sáng Chúa Kitô tỏ cho họ thấy tình trạng thật của họ. Ai đó mới chỉ là một con người tốt thôi thì chưa đủ để xưng mình là Ánh Sáng cho Thế Gian; vì vẫn còn có những vướng mắc và lầm lỡ đeo đuổi ngay cả những người có đức tính tốt nhất. Đức Phật đã vạch vẽ ra phương thế nói là hữu dụng nhất để hướng dẫn con người trong tối tăm, nhưng Phật chưa từng bao giờ tuyên bố chính mình là Ánh Sáng Thế Gian. Phật Giáo được phát sinh từ việc chán ngán thế tục, do bởi một hoàng tử bỏ vợ bỏ con, từ bỏ cuộc đời sung sướng, đối diện với khổ lụy ở đời để đi tìm hạnh phúc. Bị thiêu đốt bởi lửa nóng của thế tục, chán ngán với nó, Đức Phật đã quay đi tìm hạnh phúc qua việc sống đạo lý.
Nhưng Chúa của chúng ta chẳng bao giờ chán ngán. Nếu Người là Ánh Sáng, thì đó không phải là vì Người đã bị thương tích bởi bị chao đảo trong bóng tối. Trước khi chết, Mohameh đã thú nhận ông không phải là Ánh Sáng của thế gian, nhưng ông đã nói, “Sợ hãi, van xin, kiếm tìm một chỗ nương thân, yếu đuối và cần tình thương xót, tôi xưng thú tội lỗi của tôi trước Đấng Tối Cao, dâng lời khẩn nguyện như một người nghèo hèn trước nhà phú hộ.” Khổng Tử đã qúa bị bao phủ bởi bóng tối của sự bất toàn trong tội lỗi đến nỗi ông không bao giờ nói lên được như thế. Ông nhìn nhận:
Tôi chưa hề bao giờ có thể thực hành đúng các nhân đức, tôi chưa hề bao giờ có thể nói, hay làm đúng những điều tôi đã học được, tôi chưa hề bao giờ có thể thay đổi cái đã bị hư hỏng – Đây là những nỗi buồn phiền của tôi . . . Trong kiến thức có lẽ tôi đồng hạng với những người khác, nhưng tôi chưa hề có thể biến bản chất của cái là tốt lành thành ra việc làm.
Trước khi chết, Đức Phật nói với Ananda, một đệ tử thân tín, “Các giáo thuyết và các luật lệ, hỡi Ananda, mà ta đã dạy và truyền lại cho con, chúng sẽ là sư phụ của con khi ta ra đi và bỏ con ở lại.”
Chúa Giêsu ra đi đã không để lại một bản văn nào cả. Giáo thuyết của Người là chính Người. Lý tưởng và lịch sử được nhận diện ở chính Người. Chân lý mà tất cả các nhà đạo đức học công bố, và ánh sáng mà họ trao đến cho thế giới, không ở trong chính bản thân họ, nhưng ở bên ngoài họ. Chúa Giêsu của chúng ta, ngược lại, đã nhận diện Thiên Tính Khôn Ngoan ở nơi chính bản thân Người. Đó là lần đầu tiên trong lịch sử loài người có như thế, và nó cũng chẳng bao giờ có lần nào khác.
Sự nhận diện về cá tính của Người với sự Khôn Ngoan được quảng diễn thêm khi Người nói:
Tôi là Đường; là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha trừ ra bởi tôi. Nếu anh em biết tôi thì anh em cũng biết Cha tôi (Ga 14:6,7).
Điều này cũng giống như nói rằng không có Đường thì cũng chẳng có đi; không có sự thật thì cũng chẳng có hiểu biết, không có sự sống thì cũng chẳng có sinh sống. Con Đường trở nên đáng yêu, không phải khi nó là ám hiệu trừu tượng hay là những giới răn, nhưng là khi nó trở nên riêng tư cho mỗi người. Plato có lần nói, “Người cha của thế giới thật khó để tìm thấy, và khi đã thấy thì lại không thể liên lạc được.” Câu trả lời của Chúa cho Plato có lẽ sẽ là, người Cha đó khó tìm thấy thật trừ khi Người tự tỏ bày chính Người qua Người Con của Người.
Không có cái gọi là đi tìm chân lý trước rồi sẽ thấy Đức Kitô, bởi vì Người là chân lý, cũng chẳng có cái kiểu đốt đèn cầy lên rồi sẽ thấy mặt trời, vì ánh sáng mặt trời sáng chói hơn ánh đèn cầy. Như các nguyên lý khoa học đặt chúng ta trong mối liên hệ tri thức với vũ trụ, như những sự thật của lịch sử đặt chúng ta trong mối liên hệ thời gian với những thăng trầm của các nền văn minh. Thì Đức Kitô đặt chúng ta trong mối liên hệ tri thức với Thiên Chúa Cha; vì Người là Lời duy nhất có thể để Thiên Chúa nói và bày tỏ chính Mình cho thế giới của những người tội lỗi.
"Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho. (Mt 11:27).
Sự sống là ở trong Người trong tinh thần hiệp thông liên kết muôn đời từ Cha. Tất cả những người đã đến trước Người, và những ai đến sau Người, và người nào trao ban một đường lối khác thì Người nói họ đều là kẻ gian trá và trộm cướp trong nhân loại:
"Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. (Ga 10:7-10).
Chưa hề có người nào đã tự nhận chính họ là điều kiện để đem lại bình an hay sự sống đời đời cho nhân loại. Chúa Giêsu của chúng ta, ngược lại, đã tự xác nhận Người là Cửa vào; đó là một biểu hiệu của sự khác biệt bởi vì một bên là thế giới và bên kia là nhà; nhưng nó cũng là một dấu chỉ của sự bảo vệ, tính hiếu khách và mối quan hệ. Như thành phố Troy cổ xưa đã chỉ có một cổng vào, thì Chúa cũng nói Người là Cổng duy nhất dẫn vào ơn cứu rỗi. Sống hiệp thông với Người ở một địa điểm bí mật, nơi Người và các linh hồn gặp gỡ trong tình yêu ngây ngất. “Tùy ý đến và đi,” là một sự kết hiệp của cả hai trạng thái chiêm niệm và đời sống thực tại; vì sự liên kết của hiệp nhất nội tâm với Đức Kitô ở đây bao gồm tinh thần vâng phục thực tế trong thế giới của hành động.
Không những Chúa chỉ xác nhận Chân Lý và Sự Sống là chính Người, nhưng Người còn tuyên bố Người sẽ xét xử thế gian – điều mà chẳng bao giờ một người bình thường nào dám làm. Như vị Thẩm Phán, Người nói là Người sẽ trở lại ngồi trên tòa vinh hiển, cùng với các thiên thần hộ tống, để xét xử mọi người về các việc làm của họ. Hãy hình dung ra sự co khép lại trước ý tưởng là một ai đó có thể xâm nhập vào tận thẩm cung của lương tâm, lôi ra những ý muốn thầm kín nhất, và xét xử chúng ta muôn đời. Nhưng cuộc xét xử cuối cùng này còn xa xôi lắm và vẫn còn bị dấu kín khỏi con mắt của người phàm. Có thể sẽ có một dấu hiệu hay một tập dượt về ngày phán xét sau cùng đó là ngày Jerusalem bị tàn phá và nó sẽ được thực hiện trước ngày giờ Đức Kitô đến. Nó cũng sẽ là khúc dạo mở đầu cho sự tàn phá sau cùng của ngày tận thế, khi Nước Thiên Chúa được thiết lập ở giai đoạn cuối trong vinh quang đời đời. Chúa nói về ngày tận thế:
Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến. Người sẽ sai các thiên sứ của Người thổi loa vang dậy, tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương, từ chân trời này đến chân trời kia. (Mt 24:30-31).
Khi Người đến để xét xử thì sẽ không chỉ còn giới hạn trong vùng đất mà Người đã làm việc và tỏ bày chính Người ra; nhưng sẽ là việc xét xử mọi dân tộc và mọi chế độ ở trần gian. Thời điểm đến lần thứ hai, Người sẽ đến không phải như là một người như lần thứ nhất, nhưng là Thiên Chúa. Người sẽ không nói ra ngoài việc cảnh báo là ngày ấy sẽ đến bất ngờ, giống như tiếng sét. Người đã đến như một “Con Người trong Đau Khổ”; và Người sẽ đến trong Vinh Quang ở lần thứ hai. Những điều qui nạp với sự đau khổ nơi nhân tính của Người sẽ là điều cần để nhận ra dung mạo của Người. Do đó, sau khi sống lại từ cõi chết, Người đã giữ lại những dấu vết thương tích. Cùng với Người sẽ có các thiên thần, và tất cả mọi dân tộc sẽ được phân chia thành hai loại; chiên và dê. Như khi Người phân chia người ta ra, cách đơn giản, là những người ghét bỏ Người và những người yêu mến Người, Người phân loại họ ra như thế. “Ta là Đấng Chăn Chiên Hiền Lành,” Người nói về chính mình. Danh hiệu mà Người minh xác trong ngày tận thế bằng cách phân cách đoàn chiên của Người, chia cách các con chiên ra khỏi đàn dê.
Con chiên sẽ nghe lời khen thưởng vì đã phục vụ Người trong tình yêu thương, ngay cả khi nó không ý thức về việc phục vụ. Có rất nhiều người đã yêu thương và phục vụ Người hơn là người ta nghĩ. Điều ngạc nhiên hơn cả có lẽ là những người làm việc xã hội sẽ hỏi, “Khi nào chúng tôi đã thấy Người đói? Có phải là trường hợp số danh bộ 643?” Những người xấu, ngược lại, sẽ thấy họ chối từ Người khi họ đã chối từ làm những điều có thể cho người khác nhân Danh Người.
"Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han." Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu? " Đức Vua sẽ đáp lại rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy." Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng." Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu? " Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy." Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời." (Mt 25:31-46).
Lời của Chúa ám chỉ lòng từ thiện bác ái thực sâu xa hơn những gì được nhìn thấy. Những cảm xúc cao cả nơi lòng trắc ẩn và cảm thương được dẫn lối tìm về tận nguồn gốc là Người; điều phải nói là có nhiều tàng ẩn nơi các hành vi của con người hơn là những người làm các hành vi đó có thể nhận thức được. Người nhận diện mọi việc thiện như một việc tốt được làm cho chính Người. Tất cả các việc của lòng từ thiện đều trực tiếp hay gián tiếp nhân danh Người, hoặc trực tiếp hay gián tiếp chối từ Người. Mohammed nói các việc từ thiện phải được ban phát, nhưng không nhân danh ông. Chúa Giêsu lại lấy đó làm điều kiện, nhưng như một người bình thường thì đó là điều ngớ ngẩn. Hơn nữa, chỉ có Ý của Đấng Tối Cao mới có thể xét xử những xui khiến thầm kín đứng ở đàng sau những việc từ thiện để biết khi nào nó là việc từ thiện và khi nào nó là sự tự tìm tiếng khen vinh danh cho mình. Người tuyên bố là Người sẽ làm và chung kết hậu quả sẽ là vĩnh viễn muôn đời. Đấng Cứu Chuộc nói Người sẽ là Thẩm Phán. Đây là sự sắp xếp Quan Phòng tuyệt vời để vị Thẩm Phán và Đấng Cứu Chuộc cũng là một.
Khi một người suy luận, không nghĩ gì đến những sự thật khác kể cả những lời xác định lập đi lập lại của Chúa liên quan đến Thiên Tính của Người – như khi Người yêu cầu chúng ta yêu mến Người hơn yêu cha mẹ mình, tin tưởng vào Người ngay cả những lúc bị bắt bớ, sẵn sàng hy sinh bản thân để cứu lấy linh hồn mình trong tình hiệp nhất liên kết với Người – chỉ nhìn nhận Người là một người tốt lành thôi. Chúng ta lập luận: Vậy theo lẽ thường không ai được coi là tốt lành ngoại trừ người khiêm tốn; và sự khiêm tốn là một nhận diện về sự thật nơi chính người ấy. Một người coi mình lớn lao hơn họ thực sự là – thì không phải là người khiêm tốn, nhưng là một kẻ kiêu căng ngu xuẩn. Có thể nào một người đòi hỏi quyền hạn hơn cả lương tri, hơn cả lịch sử, và hơn cả xã hội và thế giới, mà lại vẫn cho mình là hiền lành và khiêm nhường trong lòng?” Nhưng nếu Người là Thiên Chúa và là người, thì điều Người nói là đúng và tất cả những gì Người nói đều có nghĩa lý. Nhưng nếu Người không phải là những gì Người xác quyết, thì dĩ nhiên một số những điều qúi giá Người nói thực chẳng là gì mà chỉ là lời lẽ kiêu căng thốt ra tự ca tụng mình như hơi thở ra bởi thần khí của Lu-ci-fer hơn là thần khí của một người tốt lành. Cái gì có thể làm cho Người công bố luật từ bỏ mình, nếu chính Người lại chối sự thật để nhận mình là Thiên Chúa? Ngay cả sự hy sinh trên Thập Giá cũng trở nên nghi vấn và là điều được trù liệu, khi nó được coi như là ảo tưởng lừa bịp qủi quái. Người sẽ không thể được coi là một bậc thầy chân thật, vì không một vị thầy chân chính nào lại để cho ai đó dùng lời của mình để chiếm ngôi vị và danh dự của Thiên Chúa tối cao.
Lựa chọn của con người với giả thuyết kết luận một là người giả dối không thành thật, hai là Người nói lời chân thật, và do đó, phải đón nhận. Điều dễ hơn là tin Thiên Chúa đã làm được những việc Kỳ Diệu và Tình Thương Xót nơi Người Con Của Người ở trần gian hơn là nhắm mắt lương tri lại trước điểm sáng chói nhất ta gặp thấy trong lịch sử loài người, để rồi bị rơi vào nỗi hoang mang sợ hãi. ‘Không người phàm nào có thể là tốt lành!’ Nói như vậy là ngạo mạn và phạm thượng, thế mà Người đã xác quyết như thế về chính mình. Nếu thực là như thế, thì thay vì vượt lên trên những người tin theo đạo lý của Người là các Kitô hữu, thì có lẽ Người đã như chẳng sánh được với cả những người thấp hèn nhất trong họ. Tin những gì Người nói về chính Người, đó là tin Người là Thiên Chúa, thì có thể còn dễ dàng hơn là giải thích thế nào để cho thế giới có thể nhận một kẻ lừa đảo dối trá làm mô phạm, một người qúa kiêu căng. Có thể nói lý do duy nhất Đức Giêsu là Thiên Chúa cho nên tính nhân loại nơi Người chính là sự bày tỏ của Thiên Chúa.
Một là chúng ta ca thán về sự điên rồ của Người hai là chúng ta tôn thờ Người, chứ chúng ta không thể ngồi yên và cho rằng Người là một giảng sư về văn hóa đạo đức. Một người có thể nói như Chesterton, “Mong cho cỏ héo khô và chim trời chết rơi xuống từ trên không, khi một người hành nghề thợ mộc rảo bước bình thản và tuyên bố như chẳng màng để ý, “Trước khi có Abraham thì đã có Ta.” Viên vệ sĩ Roma, người đã tin vào các thần riêng của họ, dày dạn với chiến trường và sự chết, đã đi đến kết luận với câu nói trong lúc Chúa chết trên Thập Giá, lúc lý lẽ và lương tâm của ông thốt lên sự thật: Người này đúng là Con Thiên Chúa. (Mt. 27:54).