Ba bối cảnh quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu đã xẩy ra trên núi. Một lần Người giảng bài Các Mối Phúc, thực hành những Mối Phúc đó sẽ mang Thập Giá ở thế gian. Lần thứ hai Người cho thấy vinh quang trổi vượt qua Thập Giá; và lần thứ ba, Người trao hiến chính mình bằng cái chết như một việc chuẩn bị cho Vinh Quang của Người và của tất cả những ai sẽ tin vào Danh của Người.
Bối cảnh thứ hai xẩy ra trong khoảng thời điểm vài tuần lễ trước giờ của Can-vê, khi Người đưa các ông Phêrô, Giacôbê, và Gioan lên núi với Người; Phêrô là Đá Tảng, Giacôbê là người môn đệ đầu tiên chết vì đạo; và Gioan, người có viễn ảnh vinh quang tương lai trong Sách Khải Huyền. Ba người này đã có mặt khi Người làm cho con gái của ông Jairô chết được sống lại. Cả ba vị đều cần học bài học của Thập Giá và sửa đổi những quan niệm sai lầm của họ về Đấng Thiên Sai. Phêrô đã cực lực phản đối Thập Giá, trong khi Giacôbê và Gioan lại đi tìm vinh dự ngồi trên ngai tòa. Cả ba đều đã mê ngủ trong Vườn Giệt-si-ma-ni lúc Chúa lo buồn. Tin ở biến cố đồi Can-vê của Người, họ cần phải nhìn thấy vinh quang chiếu tỏ vượt trên những khổ nhục của Thập Giá.
Trên đỉnh núi, sau khi cầu nguyện, Người nên sáng ngời trước mặt họ khi vinh quang của Thiên Chúa tỏa chiếu ra từ thân thể của Người. Không phải là thứ ánh sáng chiếu từ bên ngoài vào mà như vẻ đẹp huy hoàng của Thiên Chúa từ trong xuất ra. Không phải là sự bày tỏ toàn vẹn của Thiên Tính cái mà không một người phàm trần nào có thể nhìn vào; cũng chẳng phải là vinh quang của thân thể Người, vì Người chưa sống lại từ cõi chết, nhưng nơi đó có một trạng thái vinh quang đặc biệt. Chiếc nôi của Người, nghề làm mộc, sự khinh ghét từ những kẻ không ưa Người đã là một sự nhục mạ; thật xứng hợp để có những bày tỏ vinh quang, như bài hát của các thiên thần khi Người chào đời và tiếng của Chúa Cha phán ra lúc Người chịu phép rửa.
Bây giờ khi Người tiến gần đến đồi Can-vê, một vinh quang mới bao quanh Người. Tiếng nói một lần nữa lại phủ trên Người bộ áo của thiên chức linh mục, để hiến dâng của lễ hy tế. Vinh quang bao quanh Người như Đền Thờ Thiên Chúa không phải là cái mà Người mặc ở bên ngoài, nhưng là sự bày tỏ tự nhiên từng có từ sự đáng yêu được thừa hưởng của “Đấng đến từ trời.” Cái kỳ diệu không phải là ánh sáng tỏa ra chung quanh Người lúc đó, mà là từ mọi thời đại nó đã bị che đậy không thấy. Mai-sen, sau khi đàm đạo với Chúa, đã lấy khăn che phủ mặt để dân Israel không nhìn thấy, do đó Đức Kitô đã che phủ vinh quang của Người trước nhân loại. Nhưng trong chốc lát, Người đã bỏ màn che phủ qua một bên để con người có thể chiêm ngưỡng; những tia sáng tỏa ra là lời tuyên bố chuyển tiếp dành cho con mắt nhân loại về Con của Đấng Công Chính. Khi thập giá đến gần hơn, vinh quang của Người lại trở nên vĩ đại hơn. Do đó, có thể là kẻ phản Kitô hay việc tử hình thập giá của Đấng Tốt Lành sẽ được báo trước bởi một vinh quang đặc biệt của Đức Kitô nơi những phần tử của Người.
Nơi con người thì thân xác là cái cũi cầm giữ linh hồn. Nơi Chúa Kitô, Thân xác là Đền Thờ của Thiên Chúa. Nơi Vườn Địa Đàng, chúng ta biết là người đàn ông và người đàn bà đã trần truồng mà không hổ thẹn. Lý do như thế bởi vì vinh quang của linh hồn trước khi phạm tội đã chiếu tỏa bao phủ thân xác và trở nên như một bộ áo. Ở đây lúc Biến Hình cũng giống như thế, Thiên Tính tỏa chiếu bao phủ nhân tính. Đây có lẽ là trạng thái trung thực nhất để Chúa Kitô được nhìn thấy hơn là ở bất cứ hình thức nào khác không có ánh sáng vinh quang đó. Để che giấu thần tính của Người đòi phải có một sự cầm giữ lại.
Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mai-sen và ông Ê-li-a. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem. (Lc 9:30-31).
Cựu ước gặp gỡ Tân Ước. Mai-sen, nhà làm Luật, E-li-a Ngôn sứ của các Ngôn Sứ – cả hai đã được thấy chan hòa ánh sáng trong Ánh Sáng của Đức Kitô, Đấng, như Con Thiên Chúa, đã trao ban Lề Luật và sai phái các Ngôn Sứ. Vấn đề được đàm đạo giữa Mai-sen, E-li-a và Đức Kitô không phải là điều người đã dạy, nhưng mà là cái Chết Hiến Thân của Người. Chính bổn phận của Người như Đấng Trung Gian chu toàn Lề Luật, các Tiên Tri và các Huấn Lệnh Đời Đời. Công việc của họ đã hoàn tất, họ chỉ hướng tới Người để thấy ơn Cứu Độ được kiện toàn.
Do vậy, Người để trước mặt là mục đích “được kể vào số những người có tội,” như tiên tri I-sai-a đã tiên báo. Ngay cả lúc vinh quang này, Thập Giá vẫn là chủ đề đàm đạo của các vị khách từ thiên đình. Nhưng cái chính là chiến thắng sự chết, tội lỗi được đền bù và mồ mả bị lấy đi. Ánh sáng vinh quang bao phủ toàn phong cảnh đã là niềm vui giống như “Hãy để tôi chết đi,” mà Jacob đã nói khi gặp thấy Giuse, hay như như lời tán tụng mà Simon đã thốt lên khi nhìn thấy Hài Nhi. Aeschylus trong Agamemnon đã miêu tả một người lính trở về quê quán sau trận chiến Trojan và trong vui mừng thốt lên là ông đã sẵn sàng để chết. Shakespeare cũng có đồng cảm với những lời vui mừng trên môi miệng của Othello sau những gian khổ của chuyến tầu vượt đại dương:
Nếu như có chết lúc này
Niềm vui khôn tả sóng dư tràn đầy
E hồn sung sướng ngất ngây
Mọi ủi ai trên đời không sánh kịp
Thành công qúa phận vô tri.
Nhưng trong trường hợp của Chúa, mà thánh Phaolô đã nói, “Niềm hoan lạc đã ở phía trước, Người can đảm đón nhận Thập Giá.”
Cái mà các Tông Đồ nhận thấy là vẻ đẹp và vinh quang nơi dung nhan và y phục của Chúa – dung nhan đó sau này lại đày máu me tung toé chảy ra từ vòng mão gai sắc nhọn; và bộ y phục được thay thế bằng những lời phỉ báng và cái nhìn mỉa mai của Herode. Vầng ánh sáng bao quanh Người lúc này được thay thế bằng sự trần truồng khi họ lột hết bộ áo che thân Người trên ngọn đồi.
Lúc các Tông Đồ đang đứng trước cảnh ở góc Thiên Đường, một áng mây kéo tới bao trùm họ:
Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! " (Mt 17:6).
Khi Thiên Chúa gởi áng mây tới, đó là dấu bày tỏ cho thấy một mối liên kết mà con người không thể phá bỏ. Khi Người chịu phép rửa, các tầng trời mở ra; bây giờ trong lúc Biến Hình các tầng trời lại được mở ra để chứng nhận Người trong cương vị của Đấng Trung Gian, và phân biệt Người với Mai-sen và các Tiên Tri. Chính Trời Cao đã sai phái Người trong sứ vụ của Người chứ không phải là do ý muốn thấp hèn của loài người. Lúc chịu phép rửa, tiếng nói vang vọng từ trời đến với chính Chúa Giêsu; trên Núi Biến Hình thì tiếng nói vang vọng lại dành cho các môn đệ. Tiếng la hò đòi “Đóng đinh” có lẽ sẽ là qúa đáng cho lỗ tai của họ nếu họ không biết đó là những lời giúp đưa Người Con đến cảnh chịu khổ đau. Không phải Mai-sen cũng chẳng phải là E-li-a mà họ lắng nghe, nhưng chính Đấng sẽ chịu chết như bất cứ một bậc thầy nào, nhưng lại còn hơn cả một tiên tri. Tiếng nói đã chứng nhận cho sự liên kết không chia lìa và không đổ bể giữa Cha và Con; nó cũng nhắc lại những lời của Mai-sen rằng khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa sẽ gọi ra từ Is-ra-en Đấng giống như Người, người mà họ sẽ lắng nghe.
Các Tông Đồ, tỉnh thức trước ánh sáng chói lòa mà họ chứng kiến, đã tìm thấy người phát ngôn viên của họ ở Phêrô.
Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giê-su, ông Phê-rô thưa với Người rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a." Ông không biết mình đang nói gì. (Lc 9:33-34).
Một tuần trước đó, Phêrô đã cố tìm một lối vinh quang không Thập Giá. Bây giờ ông lại nghĩ sự cố Biến Hình lại là một con đường tắt đưa đến ơn cứu chuộc ngay ở Núi Tám Phúc hay là Núi Tabor mà không cần đồi Can-vê. Đây là lần thứ hai Phêrô muốn thuyết phục Chúa tránh lối đi lên Giêrusalem để bị đóng đinh thập giá. Trước biến cố Can-vê, ông là phát ngôn viên của những người muốn có vinh quang mà không cần phải mua bằng giá từ bỏ mình và hiến thân. Phêrô trong sự bốp chốp vội vàng đã cảm thấy rằng sự vinh quang mà Thiên Chúa mang đến từ trời, và vinh quang mà các thiên thần ca hát ở Be-lem có thể ở giữa loài người mà không cần khai chiến với tội lỗi. Phêrô đã quên rằng chim bồ câu chỉ đậu ở chân ông sau cơn lũ lụt, thì sự bình an chân thật cũng chỉ đến sau biến cố tử hình Thập Giá.
Như một đứa trẻ, Phêrô đã cố gắng nắm bắt và giữ lại sự vinh quang đổi dời này. Đối với Đấng Cứu Thế, đó là viễn ảnh mong chờ cái đang đứng đợi ở phía bên kia của Thập Giá; đối với Phêrô, đó là sự bày tỏ vinh quang của Đấng Thiên Sai trần thế phải được cất dựng thành nhà. Chúa Đấng đã từng trách mắng Phêrô là Sa-tan bởi vì ông muốn được triều thiên không có Thập Giá, bây giờ cũng chẳng màng để tâm đến cái chủ thuyết nhân loại tầm thường ấy, vì Người biết là “ông đã nói sảng.” Nhưng sau biến cố Phục Sinh, Phêrô hiểu ra. Và ông đã nhớ lại sự cố và nói:
Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người. Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến". Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người. Như vậy chúng tôi lại càng thêm tin tưởng vào lời các ngôn sứ. Anh em chú tâm vào đó là phải, vì lời ấy như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm, cho đến khi ngày bừng sáng và sao mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh em. (II Phêrô 1:16-20).