Xét xử Đức Kitô Tiên Tri đã xong; bây giờ đến việc xét xử Đức Kitô là Vua. Các quan án thuộc tôn giáo kết luận Chúa của chúng ta thật qúa đáng nhận mình là Thiên Chúa; bây giờ quan tòa đời lại tuyên án người qúa nhân loại. Khi tòa án cao hơn nghe một vụ kiện cáo được đệ trình lên từ một tòa án thấp hơn thì các cáo buộc vẫn tiếp tục. Các quan tòa tôn giáo không có quyền ra án tử hình, vì người Roma đang cai quản đất nước của họ. Do đó, xét theo luật thì khi Chúa của chúng ta được dẫn độ lên tòa án của Philatô cao hơn, thì tội trạng cáo buộc là phạm thượng vẫn tiếp tục. Phê chuẩn án phạt tử hình đòi phải có sự ưng thuận của Philatô. Có hai cách tòa án tối cao tôn giáo có thể làm điều này: một là Philatô đồng ý chuẩn nhận quyết định án lệnh của tòa án tối cao tôn giáo, hoặc là mở một cuộc xử mới tại tòa đời của chính quyền đang cai quản. Cách thứ hai này đã được lựa chọn. Toà án tối cao tôn giáo biết là Philatô sẽ chế nhạo họ, nếu họ nói với ông là Đức Kitô có tội lộng ngôn phạm thượng. Họ có Thiên Chúa của họ; và Philatô có các thần của ông. Hơn nữa, vì đây là vấn đề hoàn toàn thuộc cáo buộc tôn giáo, Philatô có thể trả lại cho tòa án riêng của họ mà không ra án tử cho Đức Kitô.
Để hiểu sự liên hệ giữa người bị thống trị và quyền của người thống trị, cần phải đề cập đến Philatô và sự thù ghét của người Do Thái đối với ông. Philatô là quan tổng trấn thứ 6 của xứ Giuđêa kể từ khi bị thống trị, đã cai quản được khoảng mười năm dưới triều đại của đại đế Tiberius. Tính độc đoán và đôi khi tàn ác của ông đã làm cho liên tiếp xẩy ra những cuộc nổi loạn của người Do Thái khiến ông đã phải dùng bạo lực để dẹp loạn. Người dân Giêrusalem khinh ghét ông không phải chỉ vì ông đại diện đế vương Roma và không phải là người của họ nhưng cũng còn bởi lý do có lần ông đã ra lệnh đưa những tấm hình của Đế vương Roma trong lúc đêm khuya vào Giêrusalem để treo trong đền thờ. Philatô đã đe dọa trừng trị giết người Do Thái nếu họ chống đối ông; nhưng người Do Thái sẵn sàng đưa cổ của họ cho ông và đem khiếu nại đến với Tiberius. Kết quả là huy hiệu của ông bị tháo. Chính Herod Antipas là người đã trình thỉnh nguyện của người Do Thái lên Tiberius. Đây có thể là lý do cọ sát hiềm thù giữa Philatô và Herod.
Một lý do khác tại sao Philatô bị thù ghét đó là ông đã lấy một số tài sản trong kho đền thờ để dùng vào việc xây đường cống dẫn nước. Một số người Do Thái ở Galilêa đã bị giết trong một cuộc chống đối trong lúc xây dựng và có thể là trong lúc nổi loạn như thế như trường hợp của Barabas đã bị bắt như một lãnh tụ của quân phiến loạn và là kẻ cướp. Philatô phải rất cẩn thận với địa vị của ông ở Rôma, vì Roma đã một lần không ủng hộ ông trong việc làm chống lại người Do Thái.
Vào buổi sáng lúc còn rất sớm, tất cả thành phần của tòa án tối cao, gồm các tư tế, những người lãnh đạo và giới biệt phái – đã quyết định đưa Đức Kitô đến với Philatô và xin áp đặt án tử hình. Các tư tế đã tức giận khi Người nói Người là Chiên Thiên Chúa; những người lãnh đạo tức giận vì, ngược lại với chủ thuyết truyền thống cố định, Người đã tự xưng Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa; các biệt phái thù ghét Người vì Người chống lại ngôn từ cứng ngắc và còn hứa Thánh Linh soi sáng. Sau khi hoàn tất kế hoạch để xử tử Người:
Họ cho trói Người lại và giải đi nộp cho tổng trấn Phi-la-tô. (Mt 27:2)
Chúa của chúng ta đã bị trói vài lần, khi họ mới bắt giữ Người và khi Người bị điệu đến tòa của Annas và Caipha. Trói Người để dẫn đến gặp Philatô là gây ấn tượng Người là phạm nhân có tội ghê gớm. Dẫn độ Người đến Philatô là thời điểm quyết định trong biến cố khổ nạn, vì nó làm nên trọn lời tiên tri mà Chúa đã nói:
Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại. (Lc 18:32-33)
Tòa Án Tối Cao dẫn Người đi vì họ chối bỏ lời hứa cứu chuộc đến từ Đấng Thiên Sai; bây giờ tùy thuộc ở người Dân Ngoại quyết định cho họ làm gì, xem họ có chối bỏ Vị Vua như Toà Án Tối Cao đã chối bỏ Đấng Tiên Tri. Bức tường vĩ đại giữa người Do Thái và Dân Ngoại từ từ được phá đổ, vì cả hai đều tuyên án Người phải chết. Như thánh Phaolô đã viết:
Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét. (Epheso 2:14)
Bởi thế, trách nhiệm cho cái chết của Người không thể đổ cho riêng người nào, nhưng trên toàn thể nhân loại:
Mọi người trên thế gian đều đắc tội trước toà Thiên Chúa. (Rom 3:19)
Tòa Án Tối Cao – cơ quan đã cân nhắc dùng số tiền cho Giuđa để mua máu – cũng đã cân nhắc việc bước vào nhà của người Ngoại, trong trường hợp này, là nhà của Philatô. Trong việc đưa Thiên Chúa Tù Nhân đến với Philatô, có một điều lương tâm tế nhị áy náy của các phần tử của Toà Án Tối Cao lo sợ – là sự ô uế. Philatô là Người Ngoại; bước vào trong sảnh đường của ông sẽ làm cho họ ra ô uế và họ sẽ không thể cử hành lễ Vượt Qua. Họ phải giữ mình thanh sạch để sát tế Con Chiên Vượt Qua vô tội. Trường hợp này họ thích chọn giết lấy máu Con Chiên Vô Tội của Thiên Chúa hơn là tránh đi qua ngưỡng cửa của một Người Ngoại. Đã có lần Chúa của chúng ta gọi những người Pharisiêu là “Mồ mả sơn trắng” vì giống như những ngôi mộ trắng, trông sạch sẽ bên ngoài, nhưng bên trong lại đầy xương người. Án lệnh lúc này được nên trọn trong cái sợ nhiễm ô uế từ thân xác không cắt bì trong khi lại sống với những con tim không cắt bì. Còn có những đắn đo khác nữa; nếu họ bước vào nhà mà tất cả các chất men chưa được lấy hết đi thì họ không thể tham dự lễ Vượt Qua.
Khi các quan chức của Toà Án Tối Cao đến sảnh đường (hay là nhà của quan tổng trấn) Philatô đã bước ra tiếp họ, vì ông biết là họ sẽ coi chính họ bị ô uế nếu phải miễn cưỡng đi vào. Với truyền thống tôn trọng luật của người Roma, ông đã công bố là sẽ không tuyên án trừ khi có bằng chứng cho thấy người bị tố có tội thật. Do đó ông hỏi Toà Án Tối Cao:
Các ông cáo buộc người này về tội gì? (Ga 18:29)
Để chiếm lòng tốt của Philatô, họ xin ông tin vào bản án mà họ đã ra. Hơn nữa, họ còn bảo đảm với Philatô rằng họ không bao giờ làm điều gì hại người vô tội:
Nếu hắn không làm điều ác, chúng tôi đã không trao nộp hắn cho Người (Ga 18:30)
Không nói gì đến tội lộng ngôn phạm thượng. Họ biết là cáo buộc đó chẳng nghĩa lý gì trước mặt một người Ngoại, một kẻ thống trị, và một người họ khinh ghét; do đó họ dùng từ chung chung “người làm điều ác.” Và ở đây họ đã nói đúng hơn là họ biết, vì Đức Kitô thực sự là “người làm điều ác,” hay là người “mang lấy tội ác của nhiều người.”
Philatô, biết được thế đứng của họ dưới quyền Roma không phải là để tôn trọng bảo vệ cho quyền lực của ông và đã không muốn xử, nên ông bảo họ hãy xét xử theo luật của họ. Nhưng họ trả lời rằng họ không có quyền ra án tử cho ai cả – điều này đúng, vì quyền đó chỉ dành cho Roma. Hơn nữa, họ cũng chẳng dám giết bất cứ người nào trong ngày lễ khi họ sát tế Chiên Vượt Qua.
Bây giờ họ đưa ra ba cáo buộc chống lại Chúa của chúng ta để buộc Philatô phải xử:
Chúng tôi đã phát giác ra tên này sách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình là Mê-si-a, là Vua nữa. (Lc 23:2)
Vẫn không đả động gì đến lộng ngôn phạm thượng; cáo buộc bây giờ là xúi dục; Đức Kitô là người không yêu nước, Người qúa trần thế, Người qúa chính trị, Người chống lại Caesar, chống lại Roma. Tóm lại, Người là kẻ lừa dối xúi dục dân chúng đi theo hướng khác hơn là hướng của Roma. Thứ đến là Người xui dân không nộp thuế cho vua hay cho Caesar. Và cáo buộc thứ ba là Người đã tự xưng là vua cạnh tranh quyền lực với Philatô; đây là sự lạm quyền. Họ nói, người Roma phải cẩn thận chống lại phong trào chính trị mới này. Họ còn nại đến lòng trung thành của dân chúng đối với Roma, trong khi chính lòng họ thực sự thù ghét Philatô và Roma.
Mọi lời của họ đều là cáo gian. Nếu Đức Kitô đã là người lãnh đạo xúi dục hay nếu như đã có bất cứ dấu hiệu phản loạn nào liên quan đến danh tánh của Người, chắc chắn Philatô đã nghe biết. Và Herod cũng phải nghĩ đến; nhưng chẳng hề có tí phàn nàn cáo buộc nào về Người trước đó. Còn đối với cáo buộc rằng Người không tôn trọng Caesar, chẳng bao lâu trước đó, khi có mưu kế gài bãy Người ở Đền Thờ, Người đã bảo dân chúng “cái gì thuộc về Caesar thì hãy trả cho Caesar.” Cáo buộc thứ ba – Người là Vua – không phải Người tự xưng là Vua của người Do Thái, nhưng cáo buộc Người là vua chống lại Caesar. Đây cũng là lời cáo gian, vì khi dân chúng tìm để tôn Người lên làm vua, Người đã lẩn tránh đi lên núi một mình.
Philatô đã nghi ngờ sự chân thành của họ vì ông biết là người Do Thái rất ghét ông và ghét Caesar. Nhưng duy một cáo buộc có phần làm ông quan tâm. Có phải thực sự tù nhân đứng trước mặt ông là vua? Philatô đã triệu Chúa vào trong. Khi đã vào bên trong sảnh đường, Philatô hỏi:
“Có phải ông là vua của người Do Thái không?” (Ga 18:33)
Cáo buộc chỉ nói Người là vua. Philatô biết nếu Đức Kitô tự xưng là vua chống lại Roma, thì những người dân ngoại ở đó đương nhiên sẽ tố cáo chống lại Người. Do đó ông đã hỏi có phải Người là Vua của người Do Thái không. Câu trả lời của Chúa đã thấu nhập vào lương tâm của Philatô; Người hỏi lại ông xem ông nói thế có phải là do sự hoài nghi về lời cáo buộc gian trá của kẻ thù. Philatô hy vọng tìm được câu trả lời trực tiếp. Chúa chúng ta bây giờ làm sáng tỏ sự khác biệt giữa quyền vua thuộc chính trị và quyền vua trong tôn giáo; quyền vua chính trị là điều Philatô quan tâm, thì Chúa không thèm quan tâm đến. Quyền vua tôn giáo có nghĩa là Người là Đấng Thiên Sai, thì Chúa xác nhận. Trước sự nghi ngờ của Philatô, Chúa của chúng ta phải làm cho sáng tỏ là Vương Quyền của Người không phải là vương quyền của vua trần thế thống trị bởi sức mạnh quân đội; đúng hơn Vương Quyền thiêng liêng của Người được thiết lập trong sự thật. Người chỉ có thần dân luân lý, chứ không phải giới thần dân thuộc chính trị; Người cai trị trong tâm hồn chứ không phải bằng quân đội.
"Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này." (Ga 18:36)
Quan ngại của Philatô về vấn đề chống đối quyền cai trị của Roma lúc này coi như ổn. Lãnh thổ của Đức Kitô không ở thế gian này; cho nên Người không giống như Giuđa từ Galilêa, con cua Ezechias, người đã lãnh đạo cuộc nổi dạy chống quyền cai trị của Roma vài thập niên trước bằng việc xúi dục dân không nộp thuế. Có thể là Philatô đã nghe biết về sự việc đêm hôm trước, Phêrô đã tranh luận và dùng gươm để chém, Chúa đã khiển trách việc ông dùng khí giới, rồi Người chữa cho người bị chém được lành lại. Giả như lãnh thổ nước của Người thuộc ở trần gian này, Chúa giải thích, thì Người mới cần đến lực lượng quân đội của con người; nhưng Nước Trời tự nó đã đầy đủ, vì quyền lực của Nước Trời đến từ trời cao. Nước của Người ở thế gian, nhưng không thuộc về thế gian.
Thái độ im lặng và nghiêm trang trịnh trọng của Người đứng trước mặt đang bị trói thật bất lực – mặt của Ngai in dấu những vết thương bị đánh sau lần xử thứ nhất, lời xác nhận Nước của Người không thuộc ở thế gian, các phụ tá của Người không dùng gươm kiếm, và Người thiết lập Nước của Người mà không cần phải đánh nhau – tất cả những điều này làm cho Philatô phải rối lòng nên ông thay đổi câu chất vấn. Lần thứ nhất ông hỏi, “Ông có phải là Vua của người Do Thái không?” Bây giờ ông hỏi:
Như vậy ông là vua sao? (Ga 18:37)
Cuộc xét xử tôn giáo chú trọng đến Tiên Tri Kitô, Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa. Cuộc xét xử dân sự liên quan đến Vương Quyền của Người. Thật lạ về cách những người dân ngoại liên quan với Đức Kitô dưới danh hiệu thuộc vương quyền này! Ba vua khi Người mới sinh hạ đã hỏi, nơi sinh của vị Vua này ở đâu; chính sắc lệnh của Caesar làm trọn lời tiên tri Micheas là Người được sinh ra ở Beth-lem.
Philatô an lòng là Đức Kitô không phải là đối thủ chính trị, trong ngỡ ngàng ông đã tò mò hỏi thêm về lời tuyên bố vương quyền huyền bí của Người. Chúa của chúng ta đã xác định lãnh vực vương quốc của Người rồi, và nhìn nhận việc dò hỏi như khinh thường của Philato đã trả lời:
"Chính người nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi." (Ga 18:37)
Trong suốt cuộc sống của Chúa, Người đã nói về việc Người đến trần gian; đây là lần duy nhất Người nói về việc Người được sinh ra. Được sinh ra bởi một người phụ nữ là sự thật, đến trần gian lại là một điều khác. Nhưng Người đã nói tiếp ngay sau lời nói liên quan đến việc Người được sinh ra với lời xác nhận là Người đã đến trần gian. Khi Người nói là Người được sinh ra, Người tái xác nhận nguồn gốc tính nhân loại thuộc về thời gian nơi Người như là Con Người; khi Người nói Người đến trong thế gian, Người xác nhận Thiên Tính của Người. Hơn nữa, Người đến từ trời cao, đến để làm chứng, nghĩa là để chết cho chân lý. Người đã đặt ra điều kiện luân lý cho việc khám phá sự thật và xác nhận đó không phải chỉ là một tra khảo của trí năng; điều mà một người tìm thấy được cũng còn tùy thuộc một phần ở thái độ ứng xử đạo đức luân lý của họ. Chính trong ý nghĩa này, có lần Chúa đã nói là Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Philato đã bắt được ý tưởng là việc hành xử đạo đức luân lý có liên quan đến vấn đề khám phá ra sự thật, do đó ông đã quay sang chủ trương có tính thực tế và hữu dụng để hỏi tréo lại:
"Sự thật là gì? " (Ga 18:38)
Sau đó ông quay lưng đối với sự thật – đúng hơn là không với sự thật, nhưng là với Đấng là Sự Thật. Nó vẫn còn được chờ đợi để thấy việc nhân nhượng với sự thật và sai lầm trong sự cởi mở dẫn đến việc không nhân nhượng và bách hại; “Sự thật là gì?” Khi hỏi tréo rồi thì tiếp theo là câu hỏi tréo thứ hai, “Công bình là gì?” Sự cởi mở, khi nó có nghĩa là sự coi thường không quan tâm đến đúng sai, dần dần nó dẫn đến cái kết là oán ghét cái đúng. Người đã qúa nhân nhượng với sự sai lầm đến nỗi đã chối bỏ Sự Thật tuyệt đối cũng sẽ là người đóng đinh Sự Thật. Chính quan án tôn giáo là người đã thách thức Người, “Tôi truyền cho ông”; nhưng quan tòa đời lại vặn hỏi, “Sự thật là gì?” Người mang y phục của thượng tế đã nhân danh Thiên Chúa để phủ nhận những gì thuộc về Thiên Chúa; người trong quân phục Roma chỉ tuyên xưng sự ngờ vực và nghi nan.
Khi Chúa của chúng ta nói những ai thuộc về sự thật thì nghe được tiếng của Người, là Người nêu lên điều luật cho sự thật đồng hóa tất cả những gì tương đắc tương hợp với nó. Cùng trong ý tưởng đó Người đã nói với Nicôđêmô:
Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa. (Ga 3:20-21)
Do đó giả như, thúc bách đến với sự thật có ở trong con người Philatô, thì ông đã nhận ra Sự Thật đứng ngay trước mặt ông; nếu nó không có ở nơi ông, thì ông sẽ ra án tử hình cho Đức Kitô.
Philatô là một trong số những người tin là sự thật không do bởi khách quan nhưng là do chủ quan, nghĩa là mỗi người quyết định cho mình cái gì là thật. Sai lầm thường có nơi những con người chủ trương thực dụng như Philatô, họ coi việc tìm sự thật khách quan chỉ là lý thuyết vô ích. Chủ thuyết ngờ vực không phải là quan điểm của trí khôn; nó là quan điểm thuộc đạo đức luân lý, nghĩa là nó được quyết định không bởi lý lẽ cho bằng bởi cách một người hành động và cư xử. Philatô muốn tha cho Đức Giêsu vì quan điểm chủ thuyết tự do bao gồm việc không tin vào Sự Thật Tuyệt Đối và một phần là lòng quảng đại và một phần nữa là do không muốn mất lòng những người mơ màng và mê tín. Philatô đã đặt câu hỏi, “Sự Thật là gì?” với Con Người duy nhất trên đời là Đấng có câu trả lời đầy đủ nhất.
Bây giờ Philatô bắt đầu tìm những cách để tha cho Đức Kitô, như việc tuyên bố Người vô tội, cho lựa chọn trong số các tù nhân, cho đánh đòn, một lời kêu gọi cảm thông, một sự thay đổi quan tòa. Philatô, không hiểu cách một người có thể chết vì sự thật, tất nhiên cũng không thể hiểu cách Chính Sự Thật có thể chết cho những người lầm lỗi. Sau khi quay lưng lại với Ngôi Lời Nhập Thể, ông đã đưa ra trước mặt dân chúng đứng ở ngoài quan điểm của ông đó là Người Tù trước mặt ông là người vô tội.
Ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy (Ga 19:6)
Nếu Người không có tội, thì Philatô phải tha cho Người. Nghe lời tuyên bố của quan Tổng Trấn người Roma là Người Tù đó vô tội, các phần tử của Tòa Án Tối Cao càng trở nên hung hăng trong lời cáo buộc Người là một kẻ phản loạn và chống đối:
"Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê cho đến đây." (Lc 23:5)
Điều mà Philatô mong muốn nhất là lãnh thổ cai trị dưới quyền ông được an bình; và cái mà Toàn Án Tối Cao mong muốn nhất là chứng minh rằng Đức Kitô là người gây rối loạn. Ngay khi vừa nghe nói đến “Galilêa,” ông đã thấy có cơ hội tránh né không phải xử Đức Kitô . . . Khi Tòa Án Tối Cao thay đổi cáo buộc từ tội lộng ngôn phạm thượng sang tội xúi dục, Philatô liền trao quyền xét xử đến người có thẩm quyền ở Galilêa.
Herod, vì lý do dịp Lễ Vượt Qua, lúc đó đang ở Giêrusalem. Mặc dù Philatô và Herod là địch thủ của nhau, Philatô vẫn vội mong chuyển giao trách nhiệm tha hay kết tội Đức Kitô cho Herod.
Đây là Herod Antipas, con của Herod Đại Đế, người đã ra lệnh giết tất cả những trẻ nam duới hai tuổi ở Bethlem. Gia đình của Herod thuộc Idumaen, nghĩa là thuộc giòng tộc con cháu Esau, cha của Edom. Chính giòng dõi đó của Esau dường như tiếp tục nuôi dưỡng sự thù ghét với giòng dõi nhà Giacob. Herod Antipas là chú của Herod Agrippa người sau này giết Giacôbê Tông Đồ, và còn muốn giết luôn cả Phêrô nếu như Phêrô đã không được phép lạ cứu ra khỏi ngục. Herod là con người trần tục và thích khoái lạc; ông đã cho giết Gioan Tẩy Giả chỉ vì Gioan đã lên án ông khi ông ly dị vợ để sống với người em dâu. Lương tâm của Herod bị bất an không những vì ông đã giết người loan tin về Đức Kitô nhưng còn vì những mê tín dị đoan tin là Gioan Tẩy Giả sống lại và trở về hành xử linh hồn của ông.
Khi Chúa của chúng ta được triệu đến với Herod:
Vua Hê-rô-đê thấy Đức Giê-su thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu vua muốn được gặp Người bởi đã từng nghe nói về Người. Vả lại, vua cũng mong được xem Người làm một hai phép lạ. (Lc 23:8)
Đấng Cứu Thế đã chẳng bao giờ làm phép lạ vì mình chắc chắn bây giờ sẽ không làm một phép lạ nào để cứu mình. Nhưng một ông vua phù phiếm nhìn Người Tù như cách khán giả ái mộ người làm xiệc, chỉ ham muốn thưởng thức cái hứng thú của ma thuật trong chốc lát. Giống như nhóm Sa-đôc, ông không tin vào sự sống đời sau; và tuy là một con người hoàn toàn phóng đãng, ông cũng đã có nghĩ đến tôn giáo và ma thuật. Herod thuộc loại người tò mò về tôn giáo, học hỏi, tìm đọc và đôi khi hiểu biết khá, nhưng ông tiếp tục sống theo đam mê trụy lạc. Đó là lý do tại sao ông đặt ra nhiều câu hỏi với Chúa. Cho dù các luật sĩ và các tư tế hợp lại thúc dục Chúa, Người vẫn không lên tiếng nói với Herod. Nếu Người lên tiếng thì Người cũng chỉ khiến con người ham vui này thấy thêm tội. Chước cám dỗ nhận lấy tất cả các nước thế gian bằng việc thỏa hiệp bỏ thập giá lại được bày ra cho Đấng Cứu Thế. Philatô có thể đã chiến thắng – và Herod cũng thế chỉ với một lời – nhưng Người đã từ chối lên tiếng. Người đã cảnh báo về việc rao giảng cho những người không thành tâm trong Bài Giảng Trên Núi:
Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em. (Mt 7:6)
Tôn giáo không phải là cho mọi người, nhưng chỉ cho những ai “thuộc về sự thật.” Cho dù Herod vui mừng được gặp Chúa, cái vui của ông không đến từ những động lực cao thượng của lòng sám hối. Do đó, Đức Kitô, Đấng nói với người trộm lành và với Madalena và Giuđa, sẽ không nói với ông vua của miền Galilea vì lương tâm của Herod đã bị mù che bởi ham mê những cái vui hấp dẫn, kể cả của Gioan Tẩy Giả, để rồi thêm một cái hứng thú hấp dẫn nữa chỉ làm cho tội của ông càng lún sâu hơn. Không phải là cho phần rỗi linh hồn của ông mà Herod muốn gặp Chúa, nhưng chỉ là để kích thích thần kinh của ông mà thôi. Do đó Chúa của thế giới không mở miệng nói một lời với kẻ mê thế gian. Sách Châm Ngôn diễn tả rất hay thái độ của Chúa đối với Herod:
Lúc ấy thiên hạ sẽ kêu đến ta, nhưng ta chẳng đáp lời,
sẽ kiếm tìm ta, nhưng không sao gặp được.
Vì hiểu biết Đức Chúa, chúng chẳng ưa,
kính sợ ĐỨC CHÚA, chúng không chọn. (CN 1:28,29)
Sự im lặng của Chúa làm Herod tức giận khiến ông chạm tự ái liền quay sang khinh dể và chế diễu Người:
Vua Hê-rô-đê cũng như thị vệ đều khinh dể Người ra mặt nên khoác cho Người một chiếc áo rực rỡ mà chế giễu, rồi cho giải Người lại cho ông Phi-la-tô. (Lc 23:11)
Tiếng nói ra lệnh lấy đầu Gioan Tẩy Giả để trao cho con gái của Herodias bây giờ ra lệnh cho chiếc áo trắng làm nhục được khoác trên vai của Tù Nhân. Chiếc áo choàng được khoác lên người của Người có lẽ là chiếc áo choàng mầu trắng như để chế diễu lời công bố Người là Vua vờ. Tất cả các ứng viên quan chức của Roma đều mặc áo choàng mầu trắng, do đó có từ ngữ “candidate” (ứng viên). Bởi thế Herod đã làm ra vẻ vị Vua tự xưng này đáng bị khinh dể, nhưng chiếc áo choàng trắng tình cờ cũng tuyên bố cho sự vô tội của Người.
Thói đời thường có khi những con người mang những mối hiềm thù nhỏ với nhau, nhưng họ sẵn sàng chôn vui chúng đi khi họ có cùng chung những hiềm thù khác to lớn hơn. Chủ thuyết Nazi và chủ thuyết Cộng Sản kết nạp với nhau vì có cùng chung sự thù ghét Thiên Chúa; Philatô và Herod cũng thế:
Ngày hôm ấy, vua Hê-rô-đê và tổng trấn Phi-la-tô bắt đầu thân thiện với nhau, chứ trước kia hai bên vẫn hiềm thù. (Lc 23:12)
Phái Pharisiêu và Sađốc, là kẻ thù của nhau, đã hợp tác để đóng đinh Chúa. Thập Giá của Đức Kitô kết nạp các bạn hữu của Người với nhau – đó là điều hiển nhiên; nhưng Thập Giá cũng liên kết kẻ thù của Người lại. Những kẻ theo thế gian luôn bỏ qua sự hiềm thù nhỏ khi họ cùng có chung hiềm thù đối với Thiên Chúa. Như một trào phúng hay, Người Tù này bị che phủ với Máu của chính Hắn, bị ghét bỏ bởi chính dân riêng của Hắn, lại còn tuyên bố là Vua. Herod có thể tin tưởng Philatô để nhìn ra sự trào phúng này. Khi Philatô và Herod có thể cười với nhau về việc này, họ không còn là thù địch của nhau nữa – cho dù cái đầu mối trào phúng ấy là Thiên Chúa. Chỉ khi cái cười đó trở nên xấu xa là lúc họ quay sang chống báng Đấng trao ban ra nó. Người ta thắc mắc nếu, khi Herod gởi trả Vị Thiên Tù này về cho Philatô để lãnh án, không biết ông có nhớ ra rằng Chúa đã nói Người sẽ chết ở Giêrusalem chứ không phải ở Galilêa. Sau khi Lên Trời và Thánh Linh Hiện Xuống, khi Phêrô và Gioan bị dẫn đến trước các quan tòa vì đã rao giảng về Đức Kitô Đấng chịu đóng đinh, những người cùng đi với họ đã dâng lời cầu Nguyện tiên khởi của Giáo Hội Kitô. Trong lời nguyện ấy hai vị quan toà cùng được nhắc đến; những người Do Thái và dân ngoại cũng thế, vì toàn thế giới cùng chia sẻ trong việc tuyên án Người thì cũng cùng được chia sẻ trong ơn Cứu Chuộc của Người.
Đúng vậy, Hê-rô-đê, Phong-xi-ô Phi-la-tô, cùng với chư dân và dân Ít-ra-en đã toa rập trong thành này, chống lại tôi tớ thánh của Người là Đức Giê-su, Đấng Người đã xức dầu. Như thế họ đã thực hiện tất cả những gì quyền năng và ý muốn của Người đã định trước. Giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của họ, và cho các tôi tớ Người đây được nói lời Người với tất cả sự mạnh dạn. (TĐCV 4:27-29)