Một phi công, một chỉ huy điều khiển tầu ngầm, hay một sĩ quan ngoài chiến trận đôi khi gởi về cho bộ chỉ huy của họ bản tin vắn gọn: “Sứ vụ đã hoàn tất.” Chúa của chúng ta cũng đã nói lời sau cùng của Người với thế giới; Người đã làm nhiều phép lạ như dấu chỉ Người là Thiên Chúa; Người đã làm xong công việc Chúa Cha đã trao cho Người làm. Đã đến lúc đệ trình với Cha trên trời lời cầu nguyện của thương tế “Sứ vụ đã hoàn tất.” Không văn chương nào có thể tìm được sự đơn giản và sâu sắc, hoành tráng và tuyệt mỹ như ở lời nguyện cuối cùng này. Người đã dạy loài người cầu nguyện bằng “Kinh Lạy Cha”; bây giờ Người nói lên “Cha Của Con Ơi!”
Lời cầu nguyện của Người đặt nền tảng ở sự nhận thức Người là Đấng Trung Gian giữa Chúa Cha và nhân loại. Vì lần thứ bảy Người nói về “Giờ” của Người, lời đó ám chỉ đến Cái Chết và vinh quang của Người:
Nói thế xong, Đức Giê-su ngước mắt lên trời và cầu nguyện: "Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người. Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô. Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm. Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian”. (Ga 17:1-5)
Trong bữa Tiệc Ly Chúa đã dùng từ ngữ “Cha” đến bốn mươi lăm lần. Cho đến lúc đó, thế giới chỉ biết Thiên Chúa như Đấng Tối Cao. Bây giờ Người nhấn mạnh Thiên Chúa là Cha, vì thái độ gần gũi cha con của Người đối với loài người; Người cũng thân tình nói rằng, Người, Con Thiên Chúa, đã hoàn tất sứ vụ ở trần gian, và tính nhân loại của Người đã sẵn sàng đón nhận vinh quang trên trời. Khi Ngôi Lời mặc lấy xác thể, đã có sự hạ thấp xuống, cởi bỏ, và một hình thức nô lệ. Điều Người cầu xin không phải là vinh quang của Thiên Tính, vì vinh quang đó không hề mất, nhưng đúng hơn là cái vinh quang chưa có nơi Người trước khi đến trần gian, nghĩa là vinh quang của tính nhân loại mà Người nhận được từ Đức Mẹ Maria. Tính nhân loại của Người có quyền có vinh quang vì sự hiệp nhất của nó với chính Người. Sau đó Người nói với các Môn Đệ trên đường Emau là:
Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? (Lc 24:26)
Sự sống đời đời Người xác định là biết Cha và Con Của Cha là Đức Giêsu Kitô. Chỉ biết có sự tồn tại của Thiên Chúa bởi lý lẽ thì chưa đủ; đây mới chỉ là căn bản của tôn giáo tự nhiên, nhưng sự sống đời đời chỉ có từ việc nhận biết Chúa Giêsu Kitô. Điều đặc biệt từ lời Người xác định chính Người là sự sống đời đời chỉ ở thời điểm khoảng mười tám giờ đồng hồ trước khi Người chết. Người nói Cha của Người, được vinh danh cách dán tiếp qua cái chết khổ nạn của Người. Điều này được thực hiện bởi việc làm tròn sứ vụ cứu chuộc nhân loại Chúa Cha trao cho Người. Trong suốt lịch sử nhân loại, trí khôn con người được hướng tới Thiên Chúa, nhưng chỉ như những phỏng đoán về chi tiết ý muốn của Thiên Chúa mà thôi. Ở đây Đức Giêsu nói là Người có bản sao chép ý Cha từ trước khi Người đến trần gian, và Người nói về việc đó sẽ được chu toàn ngay cả trước khi Người bị đóng đinh, rất chủ tâm để vâng lời làm theo ý Chúa Cha. Chưa một người thanh niên nào ở tuổi ba mươi ba đã có thể nói: “Tôi nhận được sự vụ lệnh từ Thiên Chúa và tôi đã làm tròn sứ mệnh.” Nhưng ở đây là lời xác nhận nút thắt cuối cùng đã được cột vào bức tranh thêu của định mệnh. Người là “Con Chiên được sắp đặt ngay từ thuở tạo dựng nên thế giới để chịu chết” theo như ý định của Thiên Chúa. Bây giờ đã đến “Giờ” hay thời điểm để thi hành ý định đó. Và Người đã xin Chúa Cha đưa nhân tính của Người vào vinh quang của sự uy nghi vinh hiển nơi Thiên Chúa đã có từ muôn đời.
Phần tiếp theo trong lời cầu nguyện của Chúa nói đến tình liên hệ giữa Chúa Cha, Người, và các Môn Đệ; nó có liên quan đến quyền lực của các Môn Đệ.
Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết danh Cha. Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha. Giờ đây, họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha đã sai con. Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha. (Ga 17:6-9)
Như Aristole đã nhận xét, Thiên Chúa không chỉ là quyền lực hay là Đấng Khởi Động mà không cần được khởi động; Người là Người Cha Yêu Thương không hoàn toàn được nhận biết và hiểu thấu ngoài trừ Người Con. Người giải thích thêm cho các Môn Đệ, những người đã cảm nhận được sự hiện diện của Người: họ không thuộc về thế gian không có niềm tin, nhưng họ thuộc về Chúa Cha. Người nói, tất cả những ai là môn đệ của Người đều là qùa của Chúa Cha ban cho Người. Người gìn giữ họ như Đấng Chăn Chiên bảo vệ đàn chiên; Người dạy họ như Thầy dạy trò; Người chữa lành cho họ như Y Sĩ chữa cho bệnh nhân. Đến với nhân loại ngập tràn tội lỗi, Chúa Cha đã tung cánh tay uy quyền của Chúa Con, Đấng ban cho họ quyền lực để tiếp tục công việc, nói nhân danh Người và ban phát công trạng ơn Cứu Chuộc của Người.
Ở đây Chúa chúng ta chú ý đến sự tiếp tục sứ vụ từ Chúa Cha tới Người, và từ Người đến với các Tông Đồ. Bất cứ tổ chức khác nào của con người có thể là năm mươi năm, một trăm năm hay năm trăm năm sau, đọc điều gì đó từ một trong những vị viết Tin Mừng sau cái chết của Người, đều không có cái đặc ân liên hệ trực tiếp thông đạt căn bản của uy quyền Thiên Chúa như thế. Tin là Chúa Cha đã sai phái Chúa Con và họ đã ngồi cùng với Người Con muôn đời đó trong xác thể, bây giờ họ có thể bảo đảm cho sự thật là Người đã sai họ. Thập Giá sẽ ở trên vai họ giống như đã ở trên vai của Người; Người đã bị xỉ nhục, và họ cũng sẽ bị phỉ báng lăng mạ. Nếu họ có tinh thần thế gian, thay vì Thánh Thần của Người, họ sẽ được thế gian yêu thích.
Sau khi cầu xin cho các Môn Đệ được gìn giữ trong tình yêu, Chúa chúng ta đã xin với Cha của Người gìn giữ họ khỏi sự dữ. Người nói là Người sẽ rời khỏi thế gian, nhưng họ còn phải ở lại, cho dù thế gian ghét họ như nó đã đóng đinh Người. Họ, và tất cả những người liên kết với Người qua truyền thống tông đồ, sẽ vẫn còn ở thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Chúa không xin với Chúa Cha cho họ thoát khỏi bệnh tật, những thử thách nhạo báng, và bị cáo gian; Người chỉ xin gìn giữ cho họ khỏi tội lỗi. Những xúc phạm thể chất từ bên ngoài phải được chống trả lại bằng tinh thần từ bên trong. Vì họ sẽ bị thế gian khinh chê, Người cầu nguyện để họ có thể nhẫn nại chịu xỉ nhục vì danh Người. Sẽ không có chủ thuyết trốn tránh. Thế gian sẽ nói, “Nếu các người tin vào Đức Kitô, các người là những kẻ trốn tránh.” Nhưng Đức Kitô nói rằng nếu chúng ta tránh Người, chúng ta là những người trốn tránh. Người đánh thẳng vào lời cáo buộc cho rằng Tôn Giáo của Người là chạy trốn. Từ Bài Giảng Tám Mối trên núi Người đã nói với những kẻ theo người họ là những người hạnh phúc nếu họ bị bắt bớ; bây giờ Người bảo họ rằng họ phải chia sẻ sự thù ghét của thế gian đối với Người. Thập Giá không phải là “một trốn tránh;” nó là một gánh nặng nề – một “cái ách êm ái và nhẹ nhàng.”
Để sống ở giữa thế giới nhiễm độc và đồng thời không bị nhiễm độc là điều không thể nếu không có ơn thánh. Chúa Cha được khẩn cầu gìn giữ họ trong sự thánh thiện:
Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian. Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. (Ga 17:15-17)
Trong Cựu ước, những người phục vụ cho Thiên Chúa đều phải thánh thiện.
Ngươi sẽ làm một huy hiệu bằng vàng ròng. Ngươi sẽ khắc trên đó những chữ sau đây, theo kiểu khắc dấu ấn: "Thánh hiến cho ĐỨC CHÚA." Ngươi sẽ đính huy hiệu đó trên một dây bằng chỉ đỏ tía buộc vào mũ tế; huy hiệu đó sẽ ở mặt trước mũ tế. Huy hiệu đó sẽ ở trên trán A-ha-ron. Như vậy, A-ha-ron sẽ mang lấy những lỗi lầm con cái Ít-ra-en đã phạm liên quan đến những của thánh, khi chúng thánh hiến những lễ vật thánh. Huy hiệu đó sẽ luôn luôn ở trên trán ông, để ĐỨC CHÚA đoái nhận những của lễ ấy (XH 28:36-38)
Sự thánh thiện đã được tỏ hiện bởi dấu thánh hiến trên trán của vị tư tế, bây giờ ở trong trái tim qua Thánh Thần Đấng thánh hiến. Họ chỉ thánh thiện thôi thì chưa đủ; họ phải “thánh thiện trong chân lý.” Như ánh sáng của mặt trời làm cho thân xác được khỏi các bệnh tật, thì chân lý của Người, Chúa nói, thánh hóa linh hồn và gìn giữ linh hồn khỏi sự ác xấu xa.
Sự thánh thiện phải có nền tảng triết lý và thần học, nghĩa là, Chân Lý của Thiên Chúa; nếu không nó chỉ là cảm tình và xúc cảm. Nhiều người nói, “Chúng tôi muốn có tôn giáo, nhưng không có kinh tin kính.” Nói như thế chẳng khác gì nói rằng chúng tôi muốn chữa lành, nhưng không tin vào thuốc thang; muốn âm nhạc nhưng không theo luật cung nhạc; muốn lịch sử nhưng không có hồ sơ lưu trữ. Tôn giáo là một lối sống, nhưng lớn lên từ chân lý, chứ không phải là thoát ra khỏi chân lý. Có người cho là điều bạn tin chẳng làm được gì khác; điều quan trọng là hành động. Điều này trái với tâm lý học, vì một người hành hành động theo những điều họ tin. Chúa chúng ta đặt chân lý hay niềm tin vào Người trước tiên; sau đó mới đến việc thánh hóa và làm điều lành thánh. Nhưng ở đây chân lý không phải là một lý tưởng viển vông, nhưng ở nơi một Con Người. Chân lý bây giờ đáng yêu, bởi vì chỉ khi nó ở nơi một Con Người mới được đáng yêu. Thánh thiện trở thành sự đáp lại của tấm lòng đối với chân lý của Thiên Chúa và tình yêu vô giới hạn đối với nhân loại.
Chúa chúng ta lại nói thêm rằng khi Người được sai phái đến để thi hành sứ vụ Chúa Cha trao phó, thì họ, được thánh hóa bởi sự thánh thiện của Thánh Thần, sẽ đi khắp thế gian như những sứ giả của Người.
Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. (Ga 17:18)
Khi Ngôi Lời mặc lấy xác người, bản tính nhân loại kết hiệp với Người được thánh hiến cho Thiên Chúa. Bây giờ Người cầu xin để những người làm điều nhân danh Người cũng được thánh hiến cho Người nơi bản tính của họ để nên giống như Người đã được thánh hiến cho Thiên Chúa theo như bản tính của Người. Sau đó, Người đã hiến Chính Thân Mình vì họ trên Thập Giá để Người có thể mua sắm cho họ tinh thần sống thánh thiện. Hiệu quả hơn là những vật hiến tế của Luật cũ với những hình ảnh và bóng dáng của nó, hy tế của Đức Kitô sẽ đem lại cho họ một sự thánh hóa chân thật:
Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến. (Ga 17:19)
Người không giữ lại điều gì; tất cả những gì trong Thân Xác, Máu Huyết, Linh Hồn và Thần Tính của Người, Người đều hy sinh cho họ hết. Nơi mà Máu Huyết của Người, của Con Thiên Chúa, được rảy vào, đều sẽ có Thần Khí và sự thánh hiến của Người. Không ai đưa Người đến chỗ bị giết. Chính Người tự hiến mình “vì họ” để trở thành ngọn thác cho đời sống của họ. Nhờ đó cả Người đã thánh hiến và họ được thánh hóa nên một. Tội lỗi của thế gian được chuyển sang cho Người, và đưa đến kết quả là Thập Giá; Sự thánh thiện và thánh hiến của Người được chuyển tới cho các Môn Đệ và tới những ai, qua họ, mà tin vào Người. Thánh Phaolô tóm ý tưởng này trong Thư gởi giáo đoàn Corintô.
Đức Kitô, Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người. (2Cor 5:21)
Phần thứ ba trong lời cầu nguyện của Người là cho những người trải qua nhiều thế kỷ đã tin vào Người qua các Môn Đệ.
Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con. Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con. (Ga 17:20-23)
Những quan tâm quan trọng nhất của Thánh Tâm Chúa đã ôm ấp tất cả mọi lãnh vực của hoàn vũ, gồm cả thời gian và không gian. Không những Người chỉ muốn kết hiệp các Môn Đệ trong tình yêu của Người nhưng còn muốn cho tất cả tâm hồn của những người tin Người, qua mục vụ của họ, cũng nên một với Người. Sự hiệp nhất nên một với Người không phải là hoàn cầu và rối loạn, nhưng cá biệt và thân tình, vì Người nói, “Ta gọi tên từng con chiên một.” Dù lúc này Người chỉ nói với mười một người, Người đã có trong trí của Người tất cả hàng triệu triệu người sau này sẽ tin vào Người qua họ và những người kế vị họ. Mối giây liên kết phải có giữa các tín hữu với Người, được xây dựng bởi sự hiệp nhất tồn tại giữa Người và Chúa Cha. Vì Chúa Cha và Người là một trong Thần Khí, chỉ trong vài phút Người sẽ nói với họ rằng Thần Khí này phải đến trên họ để làm cho họ thực sự nên một. Người gọi Thần Khí đó là “Thần Chân Lý,” V. V., Thần Khí của Người. Như thân thể là một bởi vì nó có một linh hồn, thì nhân loại cũng là một ở trên trời. Sự hiệp nhất mà các tín hữu sẽ có với Người qua thông hiệp với các Tông Đồ. Rồi Người kết luận phần này của lời cầu nguyện cho sự thánh thiện và hiệp nhất trong Mầu Nhiệm Thân Thể với những lời này:
Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành. Lạy Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng con, con đã biết Cha, và những người này đã biết là chính Cha đã sai con. Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở trong họ, và con cũng ở trong họ nữa. (Ga 17:24-26)
Người, Đấng bây giờ nói rằng Người đã hoàn tất sứ vụ ủy thác cho Người ở trần gian, chỉ thị cho những người tin theo Người thành như một cộng đoàn, hay một đoàn thể. Ở phần đầu của lời cầu nguyện, Người chỉ đơn giản xin với Chúa Cha rằng, “Con cầu xin cho những người này.” Bây giờ Người tỏ ra hệ thống hơn trong việc diễn giải ý muốn của Người, “Thưa Cha, đây là điều con mong muốn.” Người nhận biết rằng sự hiệp nhất này là điều chỉ được thực hiện cách trọn vẹn và hoàn hảo trong sự vinh quang đời đời trên trời. Vinh quang này tất cả mọi phần tử trong Mầu Nhiệm Thân Thể của Người sẽ nhìn thấy khi họ về với Người; lúc đó sẽ được bày tỏ vinh quang mà Người đã có trước khi “Ngôi Lời trở thành nhục thể và ở giữa chúng ta” vinh quang của Người “trước khi tạo thành vũ trụ.”
Trong “Kinh Lạy Cha” mà Người đã dạy con người cầu nguyện có bảy lời cầu xin. Trong kinh “Lậy Cha của Người,” cũng có bảy lời cầu xin, và những lời cầu đó liên quan đến các Môn Đệ của Người là nền móng cho Nước của Người ở trần gian. Thứ nhất – sự hiệp nhất liên lỉ của họ với Người; thứ hai – niềm vui của họ như kết quả của sự hiệp nhất này; thứ ba – việc họ được gìn giữ khỏi sự dữ; thứ bốn – sự thánh hóa của họ trong chân lý là chính Người; thứ năm – sự hiệp nhất nên một của họ với nhau; thứ sáu – là đến ngày họ có thể về với Người; và thứ bảy – họ có thể nhìn thấy vinh quang của Người.