Sau các biến cố của tuần lễ Vượt Qua ở Giêrusalem, các Môn Đệ quay trở về nơi họ đã thường hay lui tới và từng sinh sống, cách riêng là bờ biển Galilêa với muôn vàn kỉ niệm. Chính trong lúc họ đang chài lưới bắt cá, Chúa đã gọi họ trở nên những người đi “chài lưới người.” Galilê bây giờ là bối cảnh cho phép lạ cuối cùng Chúa làm, như nó đã là bối cảnh cho phép lạ đầu tiên của Người, khi Người biến nước thành rượu. Ở lần thứ nhất, “không còn rượu”; ở lần cuối này thì “chẳng được con cá nào.” Trong cả hai trường hợp, Chúa đã phán ra một lời: ở Cana, “hãy đổ nước đầy các chum”; ở Galilê, “hãy thả lưới xuống biển.” Cả hai đưa lại kết quả đầy tràn; Cana đã có sáu bình rượu đầy ngon nhất vào giờ cuối tiệc; Galilê đã được mẻ lưới đầy cá.
Các môn đệ đi biển lúc đó là Simon Phêrô, người thường được nhắc tên trước hết; người đứng gần ông tuy vậy lại là Tôma, người sau khi đã tuyên xưng Đức Kitô là Chúa và là Thiên Chúa, bây giờ vẫn sát cánh bên người được gọi là trưởng nhóm Môn Đệ. Na-tha-na-en người Cana xứ Galiêa cũng có mặt ở đó; Giacôbê và Gioan và hai môn đệ khác cũng có mặt. Điều đáng chú ý là Gioan, người trước kia làm chủ riêng một chiếc thuyền, bây giờ cùng làm chung với Phêrô. Phêrô, trong vai trò là người làm đầu và củng cố khích lệ những người khác, đã nói:
Tôi đi lưới cá đây. Chúng tôi cùng đi với ông, những người khác nói. (Ga 21:3)
Mặc dù họ đã lặn lội làm việc suốt đêm, nhưng không bắt được gì. Vừa đến lúc tảng sáng, họ trông thấy Chúa đứng trên bờ, nhưng không biết đó là Người. Đây là lần thứ ba Chúa xuất hiện gần họ như một Người Lạ để kéo lòng cảm mến của họ. Dù họ ở gần bờ đủ để nói chuyện với Người, giống như các môn đệ trên đường Emau đã không nhận biết Người cũng chẳng nhận ra tiếng nói của Người, bởi Chúa Phục Sinh đã được phủ bọc đầy vinh quang. Người đứng ở trên bờ và họ ở ngoài biển. Chúa nói với họ:
"Này các chú, không có gì ăn ư?" Các ông trả lời: "Thưa không." Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." (Ga 21:5-6)
Các môn đệ chắc chắn đã nhớ lại lời truyền dạy giống như thế khi Chúa bảo các ông thả lưới xuống mà không nói rõ bên phải hay bên trái. Lần đó Chúa ở trên thuyền, bây giờ Người đứng trên bờ. Cái tròng trành của cuộc sống đã qua rồi. Ngay tức thì, làm theo lệnh của Chúa, họ đã qúa thành công trong mẻ cá bắt được đến nỗi họ không thể kéo lưới lên được vì qúa nhiều cá. Trong phép lạ bắt được cá lần thứ nhất lúc còn đang đi rao giảng, lưới đã bị rách; Phêrô, kinh ngạc với phép lạ, đã xin Chúa tránh xa ông vì ông là người tội lỗi. Tình thương hải hà của Chúa đã làm cho ông cảm thấy ông chẳng là gì. Nhưng ở mẻ cá bắt được lần này họ lại được củng cố làm cho nên mạnh mẽ; vì ngay khi Gioan nói với Phêrô:
Chúa đó! (Ga 21:7)
Cả Phêrô và Gioan vẫn giữ đúng vai trò của họ; như Gioan đã là người chạy đến ngôi mộ trước tiên vào buổi sáng Phục Sinh, nhưng Phêrô lại là người trước tiên bước vào trong mồ. Như Gioan là người trước tiên tin Đức Kitô đã Sống Lại, thì Phêrô lại là người trước tiên chào mừng Đức Kitô Phục Sinh; như Gioan đã là người trước tiên nhìn thấy Chúa từ thuyền, thì Phêrô lại là người trước hết nhảy ra khỏi thuyền đến bên chân Chúa. Không mặc áo quần lúc đang đánh cá trên thuyền, ông vội lấy áo khoác vào, quên cả những thoải mái cho bản thân, chẳng màng đến những người bạn chung quanh, ông vội bơi mấy chục mét từ thuyền để vào đến bờ với Thầy. Gioan có khả năng tinh thần phân định nhạy bén hơn, Phêrô lại mau mắn nhanh nhẹn hơn trong hành động. Chính Gioan là người đã tựa đầu vào ngực Chúa trong đêm Tiệc Ly; ông cũng là người đã đứng gần bên Thập Giá, và là người được Đấng Cứu Thế ủy thác việc lo cho Mẹ của Người; bây giờ ông là người trước tiên nhận ra Đấng Cứu Thế Phục Sinh bên bờ hồ. Có lần trước kia khi Đấng Cứu Thế đi trên nước để đến thuyền, Phêrô đã không đủ nhẫn nại chờ Người đến với ông, ông đã xin với Thầy cho ông đi trên nước để đến với Người. Bây giờ ông bơi vào bờ sau khi đã tự trách mình không đủ kính trọng đối với Đấng Cứu Thế của ông.
Sáu người khác vẫn ở lại trên thuyền. Khi họ đến bờ, thì thấy có lửa, có cá đã nướng, bánh cũng có sẵn, những thứ mà Đấng Cứu Thế đã yêu thương chuẩn bị cho họ. Con Thiên Chúa đã chuẩn bị bữa ăn cho những thợ chài lưới người vất vả nhọc nhằn; hẳn họ đã không quên những chiếc bánh và những con cá mà Người đã làm phép lạ hóa nhiều khi tuyên bố Người là Bánh Hằng Sống. Sau khi đã kéo lưới lên bờ và đếm được một trăm năm mươi ba con cá họ bắt được, họ hoàn toàn không còn hoài nghi đó chính là Chúa. Các Môn Đệ hiểu điều đó, như Người đã gọi họ là những thợ đi lưới người, thì mẻ cá lớn bắt được này biểu hiệu cho số tín hữu sẽ được mang vào con thuyền của Phêrô.
Lúc khởi đầu cuộc đời rao giảng công khai của Người, bên bờ sông Jordan, Đức Kitô đã được giới thiệu với họ là “Chiên Thiên Chúa”; bây giờ Người sắp rời xa họ, Người đã dùng tước hiệu này cho những người tin tưởng vào Người. Người đã nhận Mình là Đấng Chăn Chiên Lành bây giờ Người trao cho những người khác quyền làm những người chăn chiên. Khi Người ban phép Thánh Thể sau bữa ăn tối và quyền tha tội sau khi Người đã ăn với họ, thì bây giờ, sau khi ăn bánh và cá, Người quay sang người đã ba lần từ chối không biết Người và hỏi ba lần để xác định tình yêu của ông. Lời tuyên xưng tình yêu phải đến trước việc trao ban quyền hành; quyền hành mà không có tình yêu chỉ là bạo quyền:
"Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?” (Gio 21:15)
Câu hỏi là: “Anh có yêu mến thầy với tình yêu thiêng liêng chân thật, với cái dấu ấn của người chủ chăn không?” Phêrô đã có lần nghĩ đến tình yêu dành cho Người như thế, đã nói với Thầy của ông trong đêm bữa Tiệc Ly, dù là mọi người có bỏ hay chối thầy thì ông vẫn một lòng trung thành không bỏ Thầy. Phêrô bây giờ được gọi là Simon, con Gioan – Simon là tên cũ của ông. Chúa đã nhắc cho Phêrô về qúa khứ của ông như một người thường, nhưng cách riêng là người đã sa ngã và chối Thầy. Ông đã sống theo tự nhiên thay vì theo ơn thánh. Tước hiệu cũng còn một ý nghĩa khác nữa; nó cũng nhắc cho Phêrô nhớ đến lời tuyên xưng vinh dự khi Chúa chúng ta nói với ông, “Simon con Gioan, con thật có phước,” và đã đặt ông là Đá trên đá ấy Người sẽ xây Hội Thánh của Người. Để trả lời cho câu hỏi xác định tình yêu, Phêrô đã trả lời:
"Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy." (Ga 21:15)
Bây giờ Phêrô không còn tuyên bố tình yêu của ông cao hơn những người môn đệ khác đối với Chúa nữa, vì sáu Môn Đệ kia đang đứng cạnh đó. Trong tiếng gốc Hy Lạp, từ ngữ “yêu” mà Chúa đã dùng ở đây không đồng nghĩa với từ ngữ mà Phêrô đã dùng trong câu trả lời của ông. Từ ngữ mà Phêrô dùng có nghĩa ám chỉ đúng hơn là một xúc cảm tự nhiên. Phêrô đã không nhận ra ý nghĩa đầy đủ của những lời Chúa nói về loại tình yêu cao cả nhất. Phêrô trong sự thiếu tự tin đã xác quyết không gì khác hơn là một cảm tình tự nhiên. Đặt tình yêu là điều kiện để phục vụ cho Người, Đấng Cứu Thế bây giờ nói với Phêrô, “Hãy chăn các chiên của Thầy.” Người đã ngã cách rất sâu thảm và đã học biết sự yếu đuối hết mực của mình chắc chắn sẽ là người xứng đáng nhất để củng cố cho những người yếu đuối và chăm lo cho đàn chiên.
Ba lần được nhắc đi nhắc lại trong việc chỉ định Phêrô là vị Đại Diện Đức Kitô ở trần gian. Ba lần chối của Phêrô đã không làm thay đổi quyết định của Chúa đặt ông là Đá nền của Hội Thánh; vì Chúa Cứu Thế vẫn tiếp tục câu hỏi thứ hai và thứ ba:
Người lại hỏi: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không? " Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy."Người hỏi lần thứ ba: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không? " Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có yêu mến Thầy không? " Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy." Chúa Giê-su bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy”. (Ga 21:16-17)
Tiếng gốc Hy-lạp được Chúa dùng trong câu hỏi thứ hai ám chỉ ý nghĩa tình yêu siêu nhiên, nhưng Phêrô đã dùng ngôn ngữ giống như ông đã dùng trước chỉ có ý nghĩa tình yêu tự nhiên. Trong câu hỏi thứ ba, Chúa đã dùng từ ngữ giống như Phêrô đã dùng lần thứ nhất, nghĩa là từ ngữ chỉ có ý nghĩa cảm tình tự nhiên. Nó giống như là Chúa đã sửa lại cách Người dùng từ ngữ để có được sự thích hợp hơn đối với Phêrô và tính nết của ông. Có lẽ vì cách thích nghi với ngôn ngữ riêng của Phêrô như thế ở lần thứ ba đã khiến ông cảm thấy buồn nhất.
Để trả lời câu hỏi thứ ba, Phêrô bỏ lời xác quyết tình yêu, nhưng thừa nhận tình yêu thông biết đối với Chúa. Trong tiếng gốc Hy-lạp, từ ngữ mà Phêrô dùng khi ông nói Chúa biết mọi sự có ngụ ý một sự hiểu biết theo quan điểm của Thiên Chúa. Khi Phêrô nói Chúa biết mọi sự và biết là ông yêu mến Người, tiếng Hy-lạp được dùng ám chỉ rõ sự hiểu biết nhờ trực diện. Khi Phêrô bước xuống từng bậc thang khiêm tốn, từng bước một Chúa đã dõi theo ông với sự bảo đảm về công việc mà ông được trao phó.
Chúa nói về chính Người: “Ta là Cửa.” Với Phêrô ông được trao cho chìa khóa và trách nhiệm canh cửa. Trách vụ của Đấng Cứu Thế là Người Chăn Chiên hữu hình cho đàn chiên hữu hình đã đến hồi kết thúc. Người chuyển giao trách nhiệm chủ chăn đó trước khi rút lui sự hiện diện của Người để về ngự Tòa trên Trời nơi Người sẽ là Đầu và là Người Chăn Chiên vô hình.
Người lưới cá Galilêa đã được thăng chức lãnh đạo và là đầu Hội Thánh. Ông là đầu trong nhóm các Môn Đệ trong mọi danh sách tông đồ. Không những tên ông luôn luôn được xếp lên đầu nhưng việc ông làm cũng thế; ông là người đầu tiên làm chứng Thiên Tính của Chúa, và là Môn Đệ đầu tiên làm chứng Đức Kitô Sống Lại từ cõi chết. Như Phao-lô đã nói, Chúa trước hết đã được nhìn thấy bởi Phêrô; Phêrô là người thứ nhất sau Sứ Vụ của Thánh Thần trong Ngày Lễ Hiện Xuống đi ra giảng Tin Mừng cho những người khác. Ông là người thứ nhất thời Giáo Hội sơ khai chống lại sự giận dữ của kẻ cấm cản bắt bớ, và là người đầu tiên trong nhóm mười hai chào đón những người ngoại giáo tin theo gia nhập Hội Thánh, và là người thứ nhất, người được tiên báo là sẽ chết tử đạo vì danh Đức Kitô.
Trong đời sống công khai, khi Chúa chúng ta nói với Phêrô rằng ông là Đá trên đá đó Người sẽ xây dựng Hội Thánh của Người, Người đã tiên báo là Người sẽ phải chịu đóng đinh và sẽ sống lại. Phêrô đã can ngăn Người hãy tránh Thập Giá. Để sửa trị cái cám dỗ đó Chúa đã gọi ông là Satan, Người bây giờ, lại trao cho Phêro đầy đủ quyền hành để cai quản chăm sóc cho đàn chiên con chiên mẹ của Người, và đã tiên báo rằng chính Phêrô sẽ chết trên Thập Giá. Người gần như đã nói với Phêrô: “Anh sẽ có một Thập Giá giống như Thập Giá mà họ đã đóng đinh Thầy, cái mà anh đã muốn ngăn cản Thầy đừng đi vào vinh quang của Thầy. Bây giờ anh phải học biết ý nghĩa yêu thực sự là gì. Tình yêu của Thầy là hành lang dẫn đưa đến cái chết. Vì Thầy đã yêu thương anh, họ đã giết Thầy; vì tình yêu của anh đối với Thầy, họ sẽ giết anh. Có lần Thầy đã nói với anh là Đấng Chăn Chiên Lành sẽ thí mạng sống vì đàn chiên; bây giờ anh là người chăn chiên thay cho Thầy; anh sẽ, do đó, nhận được cùng phần thưởng cho công việc vất vả của anh như Thầy đã nhận được – thánh giá, bốn cái đinh, và sự sống đời đời.”
Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn." (Ga 21:18)
Dù ông là người bộc trực và độc lập khi còn trẻ, nhưng đến lúc về già Phêrô sẽ làm vinh danh Thầy bằng cái chết trên Thập Giá. Từ ngày lễ Thánh Thần Hiện Xuống trở đi, Phêrô đã được đưa đến những nơi ông không muốn đến. Ông đã buộc phải rời Thành Thánh, nơi ngục tù và lưỡi kiếm chờ đợi ông. Tiếp theo là ông được Thầy Chí Thánh đưa tới Samaria và vào nhà của một người ngoại là Cornelius; sau đó ông được đưa tới Roma, là Babylon mới, ở đó ông đã được tiếp sức nhờ những người xa lạ tha phương mà Phaolô đã dẫn đưa vào đoàn chiên; sau cùng, ông được dẫn tới Thập Giá và chết tử đạo trên ngọn đồi ở Vatican. Ông đã bị đóng đinh để ngược đầu xuống đất theo như lời ông yêu cầu, vì ông cảm thấy không xứng đáng được chết giống như Thầy mình. Với ý nghĩa ông là Đá, thì như thế là điều xứng hợp để chính ông bị đặt cắm xuống đất như làm nền móng của Hội Thánh.
Kết quả là người đã luôn cản ngăn Chúa tránh Thập Giá lại là người thứ nhất trong nhóm các Môn Đệ đi để nhận lấy Thập Giá. Thập Giá mà ông đón nhận đã góp phần vào vinh quang của Chúa Cứu Thế hơn tất cả lòng nhiệt thành và tính hăng hái bộc trực của ông thời còn trẻ. Khi Phêrô không hiểu rằng Thập Giá ám chỉ Cứu Chuộc khỏi tội lỗi, ông đã sẵn sàng chết vì Thầy, tuyên bố là dù tất cả có bỏ chạy không bảo vệ Thầy, ông nhất định không bỏ. Bây giờ Phêrô đã nhìn thấy rằng chỉ trong ánh sáng của Thập Giá nơi Đồi Can-vê, Thập Giá mà ông đón nhận, mới có ý nghĩa và hiệu quả của nó. Đến cuối đời, Phêrô đã nhìn thấy Thập Giá trước mắt và viết:
Vì biết rằng sắp đến thời tôi phải bỏ lều này, như Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, cũng đã tỏ cho tôi biết. Nhưng tôi sẽ cố gắng, để trong mọi trường hợp, sau khi tôi ra đi, anh em có thể nhớ lại các điều ấy.
Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người. (2Phero 1:14-16)