Không danh hiệu nào được Đức Giêsu dùng nhiều hơn để nói về chính Người cho bằng danh hiệu “Con Người.” Chẳng có ai gọi Người với danh hiệu đó, nhưng Người đã dùng danh hiệu đó ít nhất tám mươi lần. Cũng không phải là “một Con Người” nhưng là “Con Người.” Sự hiện hữu của Người, muôn thuở và trong thời gian, đều hiện diện ở đó. Trong cuộc nói chuyện với Nicôđêmô Người đã cho thấy Người là Con Thiên Chúa ở dạng Con Người.
Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3:13-16).
Danh hiệu “Con Người” nói về nhân tính của Người, hiệp nhất trong ngôi vị với Thiên Tính, được tỏ ra lần đầu tiên mà Chúa đã ám chỉ về chính Người là “Con Người” khi các môn đệ tuyên nhận Người là Con Thiên Chúa.
Đức Kitô đã bước vào sự hiện hữu trong xác thể ở hình dạng không tự nhiên theo bản tính của Người như Con Thiên Chúa. Việc mặc lấy tính nhận loại này là một hành vị tự hạ, trở nên như không, một sự lột trần và từ bỏ vinh quang của Người. Việc từ bỏ căn bản vinh quang Thiên Chức của Người đã tạo nên một điều kiện thể lý của đời sống khiến Người xuất hiện như một con người; Sự đau khổ và cái chết của Người là những hệ lụy của sự nhục nhã theo tuần tự phải lẽ. Là Thiên Chúa Người không thể đau khổ; là con người Người lại có thể đau khổ.
Người được phân biệt trong sự khác thể giữa Con Người và Con Thiên Chúa. Một lần kia, khi những kẻ chống đối tìm cách ám hại Người, Người đã nói:
Các ngươi thuộc hạ giới, còn Ta thuộc Thiên giới (Ga 8:23).
Đôi khi danh hiệu “Con Người” được dùng để nói đến việc Người đến lần thứ hai trong ngày phán xét nhân loại; những lần khác, lại ám chỉ về sứ vụ của Đấng Thiên Sai đến để thiết lập Triều Đại của Thiên Chúa ở trần gian và ban ơn tha thứ cho những người tội lỗi; nhưng thường thì được ám chỉ đến cuộc Thương Khó, cái chết và sự Sống Lại của Người. Ẩn trong đó là sứ vụ của Người như Đấng Cứu Chuộc và việc tự hạ của Người như một Thiên Chúa trong thân xác nhân loại yếu hèn. Như một vị vua cải trang mang một danh tánh khác khi đi du lịch, thì Con Thiên Chúa cũng đã mang một danh hiệu khác đó là “Con Người,” làm như thế không có nghĩa là chối bỏ Thiên Tính của Người, nhưng là đón nhận lấy một trạng thái mới mà Người tiếp nhận. Vì Người tự hạ mình để vâng lời, và vâng lời cho đến chết trên Thập Giá, danh hiệu “Con Người” của Người nói lên việc chấp nhận sự nhục nhã, thấp hèn và đau đớn của thân phận làm người. Đó là miêu tả về cái mà Người đã trở nên, chứ không phải là cái mà Người có từ đời đời. “Con Người” hay “Con của Khổ Đau” theo Người, cũng là đối tượng được nói đến trong các tiên tri:
“Vậy sao có lời chép rằng Con Người phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê?” (Mc 9:11).
Vì danh hiệu đó không những chỉ nói lên sự tự hạ mình nhưng còn nhận là đồng hàng với nhân loại tội lỗi, Người đã không bao giờ dùng đến danh hiệu đó sau khi hoàn tất việc cứu chuộc nhân loại và chỗi dạy từ cõi chết. Môi miệng của Người, Đấng Vinh Quang Sống Lại và là Sự Sống, không còn xưng là “Con Người.” Người đã để nó ở lại cùng với tính nhân loại khi chưa được cứu chuộc ấy.
Sự thấp hèn của trạng thái hiện tại nơi Người là điều Người muốn nhấn mạnh đã trở nên rõ ràng ở việc Người nên một với những khốn khó và cùng khốn nơi con người. Nếu người ta vô gia cư, thì Người cũng chẳng có nhà có cửa:
Cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu (Mt 8:20).
Vì chân lý Người mang đến trần gian được dành cho những ai tin nhận Thần Tính của Người, và nó không phải là cái làm cho ngứa tai, Người không bao giờ dùng danh hiêu “Con Người” như là nguồn mạch của chân lý. Chân lý Người mang đến là Chân Lý của Thiên Chúa, tối hậu và tuyệt đối. Bởi thế Người tránh dùng danh hiệu “Con Người” trong liên quan đến Thần Tính của Người, thần tính đó trực hệ với Thiên Chúa Cha.
Các ông không biết Người; còn tôi, tôi biết Người. Nếu tôi nói là tôi không biết Người, thì tôi cũng là kẻ nói dối như các ông. Nhưng tôi biết Người và giữ lời Người. (Ga 8:55).
Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. (Ga 14:16,17).
"Thật, tôi bảo thật các ông” (Ga 6:32).
Nhưng khi nói đến việc xét xử thế gian, trong ngày tận thế, trong việc phân tách đàn chiên và đàn dê ra, cầm cân đo lường các nhân đức và nết xấu của mỗi tâm hồn, đặc ân và uy quyền đó dành cho Người bởi vì Người đã chịu khổ đau để cứu chuộc nhân loại trong vai vế như “Con Người.” Bởi vì Người đã vâng lời cho đến chết, Cha của Người đã tôn vinh Người làm Thẩm Phán. Biết những cái về con người, và là “Con Người,” Người có thể là một Thẩm Phán tốt nhất.
Quả thật, Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy, lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người Con là Con Người. (Ga 5:27).
Cho dù danh hiệu “Con Người” được diễn tả như sự liên hiệp của Người với tính nhân loại, Người rất cẩn trọng cho thấy rằng Người giống con người trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi. Người thách thức những người nghe Người bắt được Người có tội gì. Thế nhưng những hệ lụy của tội lại trút đổ xuống trên Người trong vai vế là “Con Người.” Vì lời cầu nguyện xin cho chén đắng qua đi; sự chịu đói chịu khát; những giọt mồ hôi máu của Người; Người đã như già đi hơn; sự hạ mình khiêm tốn rửa chân cho các môn đệ; không hề khó chịu khi những chủ của đàn heo yêu cầu người ra khỏi lãnh thổ của họ; nhẫn nại nhường nhịn trước những lời tố cáo Người là ham say sưa nhậu nhẹt với những kẻ xấu nết; tính hiền lành của Người được bày tỏ cách thầm kín khi kẻ thù muốn ném đá Người; trên hết, là sự nhẫn nại chịu đựng trong âu lo, buồn phiền, khiếp sợ, đau đớn, tâm trí phiền sầu, cảm sốt, đói khát và khổ sầu trong những giờ chịu nạn – tất cả những điều này đã làm phấn khởi nhiều người noi theo gương của Đấng là “Con Người.” Không có gì thuộc về con người là xa lạ đối với Người.
Gia đình nhân loại có những thử thách; Bởi thế, Người thánh hóa họ qua việc sống trong một gia đình với họ. Lao động làm việc đổ mồ hôi là điều thuộc về phận làm người; do đó, Người, Đấng là “Con Người” cũng là một thợ mộc. Không có cực nhọc nào của loài người do hệ quả của tội lỗi mà đã không có sự liên hiệp của Người.
Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta. (Mt 8:17).
Isaia đã tiên báo về sự hợp tác với cảnh yếu hèn nhân loại. Dù không có bằng chứng nào trong Tin Mừng nói Chúa Giêsu bị đau yếu, có nhiều trường hợp Người cảm thấy buồn như chính Người bị mang bệnh, hay như chính Người mang tội. Bởi thế trong những lần chữa bệnh, Người đôi khi “thở dài” hay “than thở” sau khi ngước mắt lên trời nơi là Nguồn Mạch Uy Quyền của Người. Sự yếu đau của nhân loại khiến Người rất cảm kích, vì tình trạng câm, điếc, phong cùi, điên dại là những hệ quả của tội lỗi, không phải ở nơi người bị các chứng tật ấy, nhưng là ở trong toàn thể gia đình nhân loại. Vì cái chết của Người sẽ tẩy trừ tội lỗi cái là nguyên do của mọi tật nguyền (cho dù sự giải thoát khỏi mọi yếu đau tật nguyền chưa xẩy ra cho đến ngày những người công chính sống lại), Người nói rằng Người có thể dễ dàng chữa trị cả hai.
Trong hai điều: một là bảo: "Con đã được tha tội rồi", hai là bảo: "Đứng dậy mà đi", điều nào dễ hơn? (Mt 9:5).
Người thở dài vì Người là Linh Mục Thượng Phẩm Đấng đã cảm kích được tất cả những “yếu đau tật nguyền mà thân xác lãnh chịu.” Nước mắt! Người đã khóc ba lần, bởi vì thấy con người khóc. Khi Người thấy những người khác than khóc, như Maria khóc than cái chết của người em trai, Người đã cảm thấy nỗi khổ đau đó như nỗi khổ đau của riêng Người.
Thấy cô khóc, và những người Do-thái đi với cô cũng khóc, Đức Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến. (Ga 11:33).
Trong cái chết và mai táng của Lazarô, Người đã trông thấy đoàn người đưa tang từ đầu đến cuối, và tất cả lý do của đám tang: Thấy cách mà sự chết vào thế gian với tội của A-dong. Chỉ trong vài ngày nữa, Người biết Người là A-dong thứ hai, trong vai là “Con Người,” sẽ nhận gánh vác lấy “tội lỗi của cả nhân loại,” và trao cái chết cho sự chết. Phục hồi sức khỏe thể lý cho nhân loại đã bắt Người phải trả giá, như việc phục hồi sức khỏe tinh thần Người đã phải trả giá bằng chính sự sống của Người. Trường hợp thứ nhất, là Con Người, Người như là một nguồn sinh khí được đổ vào nhân loại. Khi người đàn bà chạm vào gấu áo của Người, Tin Mừng kể lại:
Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra (Mc 5:30).
Bởi thế, dù không có bệnh tật hay tội lỗi nào động chạm lây lấn sang Người, Người đã mang lấy chúng như một người mẹ mang lấy nỗi khổ đau của con bà và sẽ muốn, nếu có thể, chịu mang lấy cái đau đó. Nhưng người mẹ đó không có khả năng mang cái hình hài đó của người con trong gia đình của bà như Chúa Kitô lại có thể làm thế đối với gia đình nhân loại. Người là A-dong mới và có thể mang lại ơn tha thứ và sự sống mới cho mọi người, như A-dong cũ đã mang tội lỗi và sự chết đến cho loài người.
Sau cùng, danh hiệu “Con Người” có nghĩa Người là đại diện không phải chỉ cho những người Do Thái, cũng không phải chỉ cho những người Samaritan, nhưng cho toàn thể nhân loại. Liên hệ của Người với nhân loại cũng tương tự như của A-dong. Nhân loại có hai đầu: A-dong cũ và A-dong mới là Đức Giêsu Kitô. “Con Người” (Giêsu) không phải chỉ là một người đặc biệt riêng nào đó, nhưng là một người kiểu mẫu tiêu chuẩn cho toàn thể nhân loại. Vì muốn đi vào gia đình nhân loại mà Thiên Chúa đã chọn để đến, từ ngữ diễn tả trọn nghĩa nhất là Homo Factus Est. Người trở nên con người và tự nên đồng nghiệp với loài người. Người bước vào chung phận với kiếp làm người. Người nhận lấy bản tính loài người trong Ngôi Vị Thánh của Người. Aristoles nói là nếu các thần linh thích những sinh hoạt của loài người, họ có thể nhìn thỏa thích tới cái coi là gần gũi nhất với bản tính của họ. Nói như vậy có nghĩa ám chỉ vẫn còn có chút gì coi thường về con người. Bởi thế người Hy Lạp nói là các phơi bày của thần linh “qúa đẹp để tôn thờ và qúa linh thiêng để yêu mến.” Nhưng nơi Con người của Đức Kitô thì ngược lại: “Người đến với cái thuộc về Người.” Đấng thánh hóa phải ở với kẻ được thánh hóa. Sự phân cách trong tính thể giữa hai bên khiến bằng cách nào đó cần được nên một. Cần phải có điểm hẹn, người này với người kia. Người, Đấng giống như các anh em của mình, sẽ có quyền lực hơn họ chứ không phải là người không giống họ. Bởi thế, Chúa của chúng ta là người thánh hóa, phải trở nên một người giống như những người anh em chưa có sự thánh thiện, để thánh hóa họ. Người sẽ làm cho họ nên thánh thiện bằng việc tái tạo trong sự sống của Người tư cách con người hoàn hảo đã bị hư mất và đưa sự hoàn hảo đó vào lòng trí của họ.
Mẫu mực lý tưởng phải là một người lý tưởng, “xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” – “Con Người.” Người phải ở trong nhân loại, gỡ bỏ mọi đặc ân giai cấp xã hội, tự hạ đồng hàng với những người bình thường trong quần chúng, và giãi bày cái lý tưởng tốt đẹp trong các bối cảnh phục vụ lam lũ. Nhờ đó Người sẽ là vị Thượng Tế đầy tình thương biết cảm thông với con người và là vị đại diện chân thật trước Thiên Chúa. Càng gần gũi dân chúng bao nhiêu Người càng xứng với chức vụ trong vai trò của Người bấy nhiêu. Bởi có lòng thương yêu đối với những kẻ kém kỏi dốt nát và lầm lỗi, Người đã tiếp nhận qua cảm nghiệm và nhận biết sự yếu đuối giống với con người lầm than.
Người không thể là vị Linh Mục Thượng Phẩm cho con người và cầu bầu cho con người, và đền trả món nợ lên Chúa Cha, trừ khi Người được xuất thân từ nhân loại. Vì thế danh hiệu “Con Người” nơi Người nói lên tình anh em huynh đệ với con người. Nhưng con người không thể là anh em của nhau trừ khi họ có cùng một Cha; và Thiên Chúa không phải là Cha trừ khi Người có một Người Con. Nếu tin vào tình huynh đệ với con người mà không có liên hệ của Thiên Chúa Cha sẽ làm cho con người thành một loại con hoang không hợp pháp.
Chỉ nguyên có cảm thông thì không giải thích đủ ý nghĩa của danh hiệu “Con Người” của Chúa. Người không những chỉ bằng lòng, nhưng còn rất vui lòng – hay còn thấy là cần trở nên đồng hàng với họ. Tình thương cảm đã khiến Người từ trời xuống thế, và hòa hợp trong đau khổ là tiến trình tự nhiên. Tình yêu là nguyên tắc của việc chia sẻ. Một người mẹ đau khổ cho và với đứa con đau yếu của mình, như người yêu nước khổ đau vì quê hương xứ sở của họ. Vì thế không lạ gì mà Con Người đã viếng thăm thế trần khổ lụy, tối tăm tội lỗi này qua cách làm Người – Đức Kitô hiệp nhất với những người tội lỗi là vì tình yêu của Người! Tình yêu đã tự gánh lấy những mong muốn, khổ nhục, và những mất mát và ngay cả những sai lỗi của người khác.
Người đau khổ bởi vì Người yêu thương. Nhưng còn có gì khác hơn thế nữa. Một người không thể lấy làm đủ để yêu thương một người khác; nếu sự đau khổ này có giá trị chút nào, thì Người phải có cái gì đó nữa để hiến dâng lên Thiên Chúa vì chúng ta, và việc hiến dâng đó của Người phải có phẩm chất hiệu lực cần thiết. Hiến dâng đó phải hoàn hảo và có giá trị đời đời; Do đó Người phải là Thiên Chúa và là người, bằng không thì việc tu sửa và cứu chuộc con người tội lỗi không có giá trị trước nhan Thiên Chúa. Lòng thương cảm mà thôi thì chưa đủ để làm nên sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa và cái không thánh thiện. Cần phải chỉ định một vị thuộc thiên tính vào địa vị đó. Trong vai trò thiên tính “đòi buộc”, Người không phải chỉ là một vị Thượng Tế nhưng còn là một vật hiến tế. Người cất đi tội lỗi qua việc hiến tế chính mình. Là Thượng Tế, Người đại diện cho nhân loại; là vật hiến tế, Người là của lễ đền thay cho nhân loại. Người dâng hiến chính mình như của lễ xứng đáng trước Thiên Chúa. Đó là một gương mẫu tự nguyện và thành tâm đối với ý của Thiên Chúa, và Thiên Chúa đã chấp nhận của lễ không do tay người phàm, nhưng bởi “Con Người,” hay giòng giống nhân loại được đại diện bởi “Con Người Mô Phạm” này. Hành động như người cưu mang tội lỗi không làm thay đổi tình nghĩa của Người với Cha trên trời; dù Đức Kitô thực sự đã là người mang lấy tội lỗi của nhân loại ở trần gian, Người là người mang lấy tội lỗi bởi sự tiền định trước khi Người đến trần gian. Do đó Thánh Kinh gọi Người là “Con Chiên bị đem đi giết trước khi tạo thành thế gian.”
Không ai – không phải ma qủi, không phải những kẻ thù của Người, cũng không phải các môn đệ – đã gọi Người là “Con Người.” Giống như “Con Thiên Chúa” đã áp dụng về chính Người có ý nghĩa riêng biệt, là Con Duy Nhất được sinh ra từ Chúa Cha, do đó danh hiệu này, được Người đặt ra cho chính Người. Không có ai khác đứng làm đại diện cho nhân loại. “Con Thiên Chúa” là người khách lạ đối với nhân loại, bởi vì Người là Đấng Sáng Tạo; nhưng trong vai “Con Người” Người là một với giòng giống con người ngoại trừ tội lỗi. Là Con người thì Người có thể chết. Chết là một sự nhục nhã của phận người; nhưng chết cho người khác lại là một vinh quang danh dự. Cha của Người, do đó, đã tỏ lộ một tình yêu cá biệt đối với Con của Người bằng việc ban phép cho Người làm “Con Người” để nếm cái chết cho những người khác. Gia phả của gia đình tổ tiên trần thế thì không quan trọng; cái quan trọng là gia phả gia đình của con cái Thiên Chúa mà Người khởi sự từ đồi Can-vê.