Chỉ có một trường hợp được ghi lại trong lịch sử về Chúa khi Người hát, và đó là sau Bữa Tiệc Ly lúc Người đi đến Vườn Giêt-si-ma-ni và gần cái chết của Người.
Hát thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ô-liu. (Mc 14:26)
Những người lưu đầy ở Babylon đã cất những nhạc khí và treo trên cửa sổ, vì họ không còn có thể ca hát từ tâm hồn của họ nơi đất khách quê người. Con chiên hiền lành không mở miệng được khi nó bị đem đi giết, nhưng Con Chiên chân thật của Thiên Chúa đã ca hát trong hân hoan trước viễn cảnh Cứu Chuộc thế giới. Và sau đó là lời cảnh báo họ sẽ bị lung lay trong niềm tin vào Người. “Giờ” mà Người thường hay nói đến đang tiến tới thật mau lẹ; khi giờ đó ập đến với Người thì họ sẽ hoảng loạn lung lay: nếu Người là Thiên Chúa, tại sao Người lại phải đau khổ như vậy?
"Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy”. (Mt 26:31)
Đấng sẽ là đá tảng cho đức tin của họ trong những ngày tới, bây giờ lại cảnh báo rằng Người cũng sẽ là tảng đá cho họ vấp ngã. Người đã xưng là “Đấng Chăn Chiên Hiền Lành,” và đây là lúc hiến mạng sống của Người vì đàn chiên. Quay trở lại nhiều thế kỷ, Người trích dẫn điều Zachariah đã tiên báo:
Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác. (Zechariah 13:7).
Để Đức Kitô là Đấng Cứu Thế, Người phải là của lễ hiến tế. Đây là cái làm cho họ bị hoảng loạn lung lay. Thực vậy, chỉ một giờ sau đó, tất cả các Môn Đệ đều bỏ Người và chạy trốn. Nhưng vì Người đã không hề nói về Sự Thương Khó của Người mà không đề cập đến việc Người Sống Lại, cho nên Người nói thêm những lời mà họ không hiểu được:
Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em. (Mt 26:32)
Lời hứa như thế chưa hề bao giờ được nghe nói đến; một người chết lại có lời hứa hẹn gặp gỡ với các bạn của mình sau ba ngày chết chôn trong mồ. Cho dù đàn chiên chối bỏ Chủ Chăn, Chủ Chăn sẽ tìm đàn chiên của Người. Như Adam đã đánh mất gia nghiệp thừa hưởng kết hiệp với Thiên Chúa trong một khu vườn trước kia, thì bây giờ Chúa lại vun xới sự kết hiệp đó trong một khu vườn. Vườn Địa Đàng xưa và vuờnGiêt-si-ma-ni bây giờ là hai khu vườn liên quan đến vận mệnh của nhân loại. Nơi vườn Địa Đàng, Adam đã phạm tội; nơi vườn Giệt-si-ma-ni Đức Kitô đã nhận lấy tội lỗi của nhân loại. Nơi vườn Địa Đàng, Adam đã ẩn núp trốn tránh đối diện với Thiên Chúa; nơi vườn Giêt-si-ma-ni, Đức Kitô đã cầu bầu với Chúa Cha; nơi vườn Địa Đàng Thiên Chúa đi tìm Adam trong tội phản động của ông; nơi vườn Giêt-si-ma-ni Ađam Mới đã tìm đến với Chúa Cha để qui phục phó thác. Nơi vườn địa đàng, một lưỡi gươm đã được tuốt ra để ngăn chận nơi cổng vườn không cho vào và sự dữ bị đầy đọa đời đời; nơi vườn Giêt-si-ma-ni, lưỡi gươm được cất vào bao.
Vườn được gọi là Giêt-si-ma-ni vì nơi đó có máy ép nho. Và đây không phải là lần đầu tiên Chúa của chúng ta đã đến khu vườn đó.
Người thường tụ họp ở đó với các môn đệ (Ga 18:2)
Hơn nữa, Người thường đến đó vào đêm khuya:
Ban ngày, Đức Giê-su giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ô-liu. (Lc 21:37)
Giuđa đã ra đi để làm cái việc phản bội dơ bẩn của hắn. Tám Môn Đệ ở lại gần lối vào vườn Giêt-si-ma-ni; ba môn đệ khác là Phêrô, Giacôbê và Gioan, những người đồng hành với Chúa khi Người làm cho con gái của Giairô sống lại, và khi dung nhan của Người biến tỏa sáng chói như mặt trời ở núi Biến Hình, Người đã đem họ cùng đi với Người vào bên trong vườn. Dường như là trong cuộc chiến đấu cuối cùng nơi vũng tối của bóng đêm, linh hồn nhân tính của Người mong muốn có sự hiện diện của những người thân yêu với Người nhất. Phần họ, được tăng sức trước cái hoảng sợ về cái chết của Người, vì họ đã chứng kiến trước sự vinh hiển của Người. Khi bước vào trong khu vườn, Người đã nói với họ:
"Anh em ngồi lại đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện." (Mt 26:36)
Xao xuyến buồn phiền bắt đầu tăng dần, Người nói với ba môn đệ:
"Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy." (Mt 26:38)
Isaia đã tiên báo gánh nặng trên Người sẽ không ai sánh nổi. Để lời tiên tri đó được nên trọn Người đã nếm sự chết của tất cả mọi người, nhận lấy tội lỗi như thể của chính Người. Hai yếu tố không thể tách rời, nhận lấy tội lỗi, và vâng lời trong vô tội. Qùi phủ phục xuống, bấy giờ Người đã cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời:
Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha. (Mt 26:39)
Hai bản tính nơi Người, Thiên Tính và nhân tính, đều có trong lời khẩn nguyện này. Người và Cha Người là Một; không phải là “Cha của Chúng Ta,” nhưng là “Cha của Ta.” Người nhận thức được tình yêu thương không sứt mẻ của Chúa Cha. Nhưng tính nhân loại nơi Người bị dội lại trước cái chết như một hình phạt của tội lỗi. Sự co rụt tự nhiên của linh hồn con người đối với hình phạt đáng phải chịu vì tội lỗi bị vật vã bởi sự tùng phục của Thiên Tính đối với ý của Chúa Cha. Tiếng “Không” đối với chén Thương Khó thuộc về tính nhân loại; tiếng “Vâng” đối với Thiên Ý là sự chiến thắng cái bất khả của tính nhân loại trước đau khổ vì ơn Cứu Chuộc. Nhận lấy chén đắng đau khổ nơi tính nhân loại để đền bù cho tội lỗi và làm cho nó nên dịu ngọt với những giọt nho nhỏ của ý Thiên Chúa là dấu của Đấng đã chịu khổ vì nhân loại, và là Đấng, mà sự đau khổ của người có giá trị bất biến, vì Người là Thiên Chúa đồng thời cũng là con người.
Bối cảnh này được che phủ với hào quang của một mầu nhiệm mà trí khôn của con người không thể hiểu thấu. Người ta có thể phỏng đoán lờ mờ cái tâm lý khiếp sợ trong các bước tăng triển của nỗi sợ hãi, xao xuyến, và sầu não làm cho Người phủ phục xuống trước khi bị tấn công. Người ta thường nói là những người lính sợ chết trước giờ giao chiến hơn là trong lúc giao chiến. Sự chiến đấu lúc lâm trận lấy mất đi nỗi lo sợ chết lúc chưa giao chiến. Nhưng đối với Chúa thì còn có điều khác ngoài sự im lặng chờ đợi phút lâm trận mà điều đó đã đổ thêm vào nỗi đau buồn của Chúa. Rất có thể cái Đau Đớn trong Vườn đã làm cho Người đau hơn cả cái đau vì bị đóng đinh trên Thập Giá, và có lẽ đã đưa Linh Hồn của Người đi đến những vùng đen tối hơn tất cả những lúc khổ nạn nào khác, ngoại trừ có thể là lúc Người kêu lên trên Thánh Giá:
"Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" (Mt 27:46)
Cái khổ trí tuệ của Chúa rất khác với những nỗi khổ của một người thường, bởi vì thêm vào sự hiểu biết thuộc nhân linh, Người cũng còn trí tuệ Thiên linh. Hơn nữa, Người có một thể lý hoàn hảo nhất của một con người có thể có được; do đó thân thể người rất bén nhạy đối với đau khổ hơn chúng ta, là những con người đã bị chai cứng bởi những cảm xúc thô bạo và cảm nghiệm xấu xa.
Nỗi khổ đau này có thể được vẽ ra lờ mờ bằng việc nhận thức rằng có nhiều cấp độ đau cảm nhận được từ những cấp bậc của các thụ tạo. Con người thường thổi phồng cái đau đớn của loài vật, cho là chúng cũng đau đớn như con người. Lý do chúng không đau đớn ghê gớm như con người bởi vì chúng không có trí tuệ. Mỗi lần đau của thú vật đều riêng rẽ và khác biệt, không liên kết với mỗi cái đau khác. Nhưng khi một người chịu đau đớn, họ có thể nhớ lại cái đau cũ bằng trí nhớ của họ, cộng thêm tất cả những nỗi đau cũ, và kéo chúng về với họ, nói rằng: “Hôm nay đã là tuần thứ ba để phải chịu nỗi đau này” hoặc “Nỗi khổ này đã kéo dài bảy năm trường.” Bằng việc kết nạp tất cả những nhát búa giáng của đau đớn cũ vào cái đau thứ một trăm, họ làm cho chín mươi chín nỗi đau cũ được tăng lên. Điều này thú vật không thể làm được. Do đó con người đau đớn hơn con vật.
Thêm nữa, trí khôn của con người không những có thể nhớ lại qúa khứ và đem nó trở lại hiện tại, nó còn có thể nhìn xa thêm để lôi tương lai về hiện tại. Không những con người có thể nói: "Tôi đã đau khổ suốt bảy năm trời,” nhưng “nhìn toàn cảnh thì tôi sẽ còn phải khổ thêm bảy năm nữa.” Trí khôn con người nhìn xa về tương lai vô định, và kéo cái khổ tương lai được hình dung ra trong trí tưởng tượng khi nó còn chưa xẩy ra, rồi chèn nó vào với cái đau hiện tại. Vì khả năng này của trí khôn, không những là chèn nó vào cái đau hiện tại được kéo dài từ qúa khứ, nhưng cũng đưa nó vào danh sách những cực hình tưởng tượng của tương lai, con người có thể đau khổ hơn mọi con vật. Con người chồng chất lên chính mình với những cái đã xẩy ra trong qúa khứ và cái sẽ xảy ra. Đó là lý do tại sao, khi chúng ta đem an ủi đến với những người đau yếu, chúng ta thường cố gắng làm cho họ quên đi nỗi đau bằng cách xoa dịu cái đau của họ và giúp họ được thanh thản, họ sẽ cảm thấy khổ đau vơi nhẹ đi.
Nhưng đối với Chúa Giêsu, có hai cái khác biệt với chúng ta có thể được đề cập đến. Thứ nhất, cái nổi bật nhất trong trí của Người không phải là đau đớn ở thể lý, nhưng là sự xấu xa luân lý hay là tội lỗi. Thực sự tự nhiên là có sợ hãi về cái chết vì Người cũng có bản tính con người; nhưng nó không qúa kinh khủng đến nỗi nó thống trị cái đau khổ của Người. Còn có cái khủng khiếp hơn là chết. Đó là cái gánh nặng mầu nhiệm tội lỗi của thế gian đè nặng nơi trái tim của Người. Thứ hai, thêm vào phần trí tuệ thuộc nhân tính nơi Người, nó được tăng lên trong cảm nghiệm, Người còn có trí tuệ Thiên Linh vô hạn biết mọi sự và nhìn thấy cả qúa khứ và tương lai như hiện tại.
Con người đáng thương trở nên quen thuộc với tội lỗi đến nỗi họ không còn nhận ra sự đồi tệ của nó. Người vô tội hiểu được cái đồi tệ của tội lỗi hơn là kẻ tội lỗi. Có một điều mà con người không bao giờ học được gì bởi cảm nghiệm chính là việc phạm tội. Người tội lỗi bị ô nhiễm bởi tội lỗi. Tội lỗi trở nên như thuộc về họ, đến nỗi họ có thể nghĩ mình còn tốt lành, như người cảm sốt nghĩ họ vẫn khoẻ. Chỉ có người đạo đức tốt lành, đứng bên ngoài vòng vây của tội lỗi, mới có thể nhìn vào sự dữ xấu xa, như một bác sĩ nhìn vào căn bệnh, để hiểu đầy đủ cái đồi tệ sự dữ xấu xa của tội.
Điều mà Chúa cảm nghiệm trong đau đớn không phải là sự đánh đập của những người lính, và tay chân của Người bị đóng chặt vào cây của sự đối kháng, nhưng đúng hơn là cái gánh nặng kinh khủng do tội lỗi của thế gian, và sự thật là thế giới sắp sửa hất bỏ Thiên Chúa Cha bằng việc chối từ Người là Con của Chúa Cha. Sự dữ là gì nếu không phải là tự tôn theo ý riêng chống lại ý muốn yêu thương của Thiên Chúa, muốn cho mình là chúa, lên án sự Khôn Ngoan của Người là ngu xuẩn và Tình Yêu Thương của Người là sự thèm muốn được phụng dưỡng nâng niu? Người không bị co lại bởi cái giường cứng của Thập Giá, nhưng bởi sự tham gia dự phần của thế gian tạo nên nó. Người muốn cho thế gian được cứu không sa phạm vào cái đen tối nhất của tội lỗi đã từng xâm nhập con cái loài người – đó là thủ tiêu Đấng là sự Tốt Lành, Chân Thật, và Tình Yêu Thương Cao Cả.
Các nhân vật vĩ đại và những tâm hồn cao cả giống như những ngọn núi – thu hút gío bão. Đỉnh đầu của họ làm vỡ tan giông bão; quanh thân mình loé chớp sấm sét và dường như là cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Ở đây giây phút cao điểm đó là lúc linh hồn cô đơn nhất, buồn thảm nhất mà thế giới chưa từng thấy, đó là chính Chúa Giêsu. Cao trọng hơn mọi con người, quanh đầu Người như đánh ngược lại những giông bão của bất công. Nơi đây toàn thể lịch sử của thế giới được tóm kết lại trong một viên đá triển lãm, sự xung khắc giữa Ý của Thiên Chúa và ý của con người.
Nó là điều vượt qúa tầm sức của con người để hiểu biết xem Thiên Chúa cảm thấy thế nào về ý muốn chống đối của con người. Có lẽ cái gần gũi nhất để ta có thể hiểu là khi cha mẹ cảm thấy ngỡ ngàng xa lạ trước cái sức mạnh bướng bỉnh của con cái khi chúng chống cưỡng và coi thường lời khuyên răn, tình yêu thương, niềm hy vọng hay sự lo sợ về hình phạt. Một sức mạnh thật qúa lớn nơi một thân thể qúa bé nhỏ và một trí khôn qúa non dại; tuy nó chỉ là hình ảnh mờ nhạt về con người khi họ cố tình phạm tội. Tội của một linh hồn là gì nếu không phải là chính sự phân cách của khôn ngoan và nguồn mạch của hạnh phúc để tìm đến những cái kết cho riêng nó, như thể là không có Thiên Chúa? Phản Kitô không gì khác hơn là sự phát triển không giới hạn để làm theo ý riêng.
Đây là lúc Chúa của chúng ta, để vâng theo ý của Chúa Cha, đã nhận lấy cho mình những bất công của toàn thể nhân loại và trở nên người nhận gánh lấy tội lỗi. Người đã cảm nghiệm thấy tất cả nỗi đau và khổ hình của những người chối không nhìn nhận tội lỗi, hay phạm tội mà không còn khiếp sợ hay không ăn năn thống hối. Nó là khởi đầu cho sự phản bội đầy kinh hãi mà Người phải hứng chịu và trả giá cho sự công thẳng của Chúa Cha, món nợ đền trả thay cho chúng ta: Bị đối xử như một người có tội. Người đã bị xâu xé như một người có tội trong khi Người không hề vương vấn vết nhơ tội – đây chính là cái gây nên đau khổ, đau khổ chưa từng thấy trên thế gian.
Như những người đau khổ nhìn lại qúa khứ và hướng đến tương lai, Đấng Cứu Chuộc cũng đã nhìn về qúa khứ và vào tất cả các tội lỗi của con người đã từng lỗi phạm; Người cũng nhìn đến tương lai, mọi tội lỗi loài người sẽ sa phạm cho đến ngày tận thế. Không phải là sự đau đớn ở qúa khứ mà Người đưa về hiện tại, nhưng đúng hơn là mọi hành động xấu xa và mọi ý nghĩ thấp hèn ẩn kín của loài người. Tội của Adong đã ở đó, lúc là đầu tổ của nhân loại ông đã đánh mất mọi sản nghiệp ân phúc của loài người. Cain cũng đã ở đó, vương vấn trong máu của người em; sự ghê tởm của thành Sođôma và Gomorrah đã có ở đó; sự lãng quên bởi dân riêng của Người, những người đã tôn thờ các thần tượng Giả tạo cũng có đó; sự thô lỗ của những người vô tín chống lại cả luật tự nhiên cũng ở đó; tất cả tội lỗi đã có mặt ở đó: tội lỗi xúc phạm do bởi quốc gia đất nước đã làm thế giới tự nhiên phải bối rối hổ thẹn; tội lỗi xúc phạm bởi phố phường, trong bầu khí hôi thối của tội lỗi; tội lỗi của những người trẻ dằm nát trái tim diụ hiền của Chúa Kitô; tội lỗi của những người già đáng lý đã qua thời phạm tội; tội lỗi xúc phạm trong bóng tối, nơi tưởng rằng Chúa không nhìn thấy; tội lỗi xúc phạm trong ánh sáng làm cho ngay cả những kẻ bất nhân cũng phải rùng mình; những tội qúa đồi tệ để nhắc đến, tội qúa đáng để nêu tên: Tội, Tội, Tội!
Một khi trí khôn tinh tuyền của Đấng Cứu Thế đưa tất cả những bất công khôn tả này vào trong linh hồn của Người như thể là của chính Người, bây giờ Người nhìn đến tương lai. Người thấy rằng việc Người đến trần gian với chủ đích cứu loài người đã làm tăng lên sự thù ghét của những kẻ chống Thiên Chúa.; Người đã nhìn thấy tương lai phản bội của Giuđa, tội lạc giáo cấu xé Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô; tội của những người Cộng Sản, họ không thể đuổi Thiên Chúa ra khỏi bầu trời, nhưng sẽ xua đuổi những người đại diện Người ra khỏi trái đất; Người đã nhìn thấy những phản bội trong hôn nhân, những cáo gian, bỏ vạ, ngoại tình, giết người và phản đạo – tất cả những tội này đã đặt vào tay của Người, như thể chính Người đã lỗi phạm. Những ước muốn xấu xa đã áp đặt lên trái tim của Người, như thể chính Người đã sinh dựng ra chúng. Những gian dối và chia rẽ đã hiện đến trong trí của Người như thể chính Người đã nghĩ ra chúng. Những phạm thượng dường như thuộc về đôi môi của Người, giống như là chính Người đã phát ngôn ra. Từ Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây, ám khí do tội lỗi của thế gian đã đổ lên Người như giòng nước lũ. Giống như Sam-son, Người đã giơ tay kéo tất cả tội lỗi của thế gian vào Người giống như thể chính Người có tội, đền trả cái giá của tội lỗi cho chúng ta, nhờ đó chúng ta lại được đến với Chúa Cha. Người đã chuẩn bị sẵn trong trí để làm của lễ hy sinh lớn lao này, mang lấy tội lỗi của thế giới vào linh hồn vô tội của Người. Đa số loài người, thì gánh nặng tội lỗi chỉ như y phục họ mang trên mình, nhưng với Người thì chỉ động chạm đến cái mà con người cho là bình thường thì lại lại cái đau đớn khôn lường.
Giữa tội lỗi của qúa khứ mà Người nhận mang lấy trong linh hồn của Người như là của chính Người, và tội lỗi ở tương lai khiến Người suy nghĩ đến ích lợi do cái chết của Người – Quae utilitas in sanguine meo – đã làm nên cái khiếp khủng của hiện tại.
Ba lần Người thấy các môn đệ say ngủ. Người băn khoăn nghĩ đến việc chiến đấu chống lại quyền lực của bóng tối không thể ngủ yên – nhưng những người này đã ngủ say. Bởi thế, không lạ gì với tổng hợp tội lỗi của mọi thế hệ bám vào Người như kí sinh trùng, bản tính của thân xác đã nặng trĩu. Như một người cha đau đớn sẽ trả món nợ cho đứa con hư, Người lúc này cảm thấy tội như đòi hỏi đến máu huyết từ chính thân của Người, Máu huyết đổ ra như những giọt máu đỏ thẫm nhỏ trên gốc rễ cây oliu trong vườn Giêt-si-ma-ni, làm thành chuỗi Mân Côi Cứu Chuộc thứ nhất. Không phải là đau đớn của thể xác đã gây nên đau khổ của linh hồn; nhưng đau khổ tràn ngập vì sự phản nghịch chống lại Thiên Chúa đã làm cho thân xác đau đớn. Người xưa nhận định rằng chất mủ chảy ra từ thân cây không bị cắt luôn là chất mủ tốt nhất. Ở đây hương thơm toát ra khi chưa bị đánh đòn, chưa bị đóng đinh, chưa có vết thương bầm dập. Không luỡi đòng, nhưng qua sự tự nguyện cao độ chịu đau khổ nơi Đức Kitô, Máu Huyết đã tuôn trào lai láng.
Tội ở trong máu. Mọi bác sĩ đều biết điều này; ngay cả người thường cũng biết thế. Say xỉn hiện ra trong ánh mắt, trên gò má căng thẳng. Tham lam được ghi ấn trên đôi tay và môi miệng. Dục vọng được ghi ấn ở ánh mắt. Không có kẻ trụy lạc, tội ác, cuồng tín, sa đọa mà lại không có sự thù hận ghen ghét được ghi ấn trong mọi thớ thịt của y, mọi lối ngõ và đường máu kín ẩn, và mọi tế bào trong não của hắn.
Vì tội ở trong máu, nó phải được tuôn đổ ra. Như Chúa đã muốn rằng việc đổ máu con cừu và những con vật là hình ảnh báo trước cho việc đền bù của chính Người, và Người muốn thêm rằng loài người tội lỗi sẽ không bao giờ đổ máu thêm do chiến tranh và hận thù, nhưng sẽ kêu nài đến Máu Châu Báu của Người lúc này đã đổ ra trong ơn Cứu Chuộc. Vì tất cả mọi tội lỗi cần được đền bù, con người thời đại, thay vì kêu nài đến Máu Châu Báu của Chúa Kitô để được tha thứ, họ lại lấy huyết của nhau trong chiến tranh tương tàn. Tất cả máu lửa này ở thế gian sẽ không chấm dứt cho đến khi con người trong sự ý thức hoàn toàn về tội lỗi, bắt đầu kêu xin cho chính mình trong bình an và ơn tha thứ từ Máu Huyết Cứu Chuộc của Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống.
Mọi tâm hồn ít nhất có thể hiểu sơ về bản chất của sự chiến đấu xẩy ra dưới ánh trăng trong Vườn Giết-si-ma-ni. Mọi con tim đều biết chút ít về điều đó. Chưa ai đến tuổi đôi mươi, chứ chưa nói đến tuổi tứ tuần, hay ngũ tuần, hoặc lục tuần, thất tuần, mà không suy nghĩ về chính mình và về thế giới chung quanh, và không biết đến sự căng thẳng kinh khủng gây ra trong tâm hồn của họ vì tội lỗi. Những sa ngã và sai lỗi không tự biến đi khỏi hồ sơ lưu trữ của trí nhớ; thuốc ngủ không làm cho nó im lặng; các nhà phân tích tâm lý không thể giải tỏa nó đi. Cái sáng rạng của tuổi trẻ có thể làm cho nó bị mờ nhạt vào trong cái dàn tổng lược không trông thấy rõ, nhưng có lúc trong thinh lặng, trên giường bệnh, những đêm trằn trọc không ngủ, ngoài biển bao la, một giây phút yên tĩnh, sự vô tư trong trắng trên gương mặt một trẻ thơ – khi những tội lỗi này, giống như những bóng ma hay những vật tinh quái, xuất hiện bộ mặt thật của nó tấn công không ngừng đến lương tâm của chúng ta. Sức mạnh của nó có thể đã không được nhận ra trong lúc đam mê, nhưng lương tâm đang chờ dịp và sẽ làm chứng nghiêm khắc không khoan nhượng vào lúc nào đó và ở đâu đó, và ép buộc linh hồn phải quay trở về với Thiên Chúa. Dầu những đau đớn và những cực hình kinh khủng của một linh hồn có đến đâu, thì nó cũng chỉ như giọt nước đổ vào biển tội của loài người mà Chúa Cứu Thể cảm nhận như của chính Người nơi Khu Vườn.
Thấy các Môn Đệ say ngủ lần thứ ba, Chúa Cứu Thế đã không hỏi thêm là họ có thể thức với Người được một giờ; tệ hơn tất cả lời khiển trách nào khác là để yên cho họ ngủ:
Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Này, đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi. (Mt 26:45)
Các môn đệ mệt mỏi được phép nằm yên trong giấc ngủ cho đến phút chót. Sự cảm thông của họ không còn cần thiết nữa; trong khi những người bạn của Người còn say ngủ, những kẻ thù nghịch của Người đã âm mưu kế hoạch. Có thể hình dung ra thời gian giữa lúc Người thấy các môn đệ đang say ngủ và sự xuất hiện của Giuđa và quân lính. Lúc đó họ có thể tiếp tục ngủ. Giờ mà Người mong chờ đã đến. Từ xa là nhịp bước đều đặn của quân lính, những bước chân chạy theo không đều của đám đông và giới lãnh đạo đền thờ và của tên phản bội Giuđa dẫn đường.
Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới! (Mt 26:46)