Truyện đời của mỗi người được kể lại trong hai thời điểm: ngày sinh và ngày tử. Duy cuộc đời của một Người trong mọi người có mặt trên cõi đời này thì cái chết của Người lại là lý do chính để được sinh ra. Như Browning diễn tả:
Tôi cho đây là dấu chỉ chính thức và là dấu ấn của Thiên Chúa;
Nó từng đánh bóng niềm vui,
Và càng vui hơn, cho đến khi niềm vui đó triển nở, bay xa vút,
Vào cơn cuồng lốc khổ đau vì nhân loại.
Cho dù Người đến để chết, đó Iại không phải chỉ là vì danh của sự chết. Bởi lẽ bất cứ khi nào có đau khổ và chết chóc, hay một sự hạ nhục nào đó được nói đến nơi Người, thì lại luôn luôn có đích điểm đối chiều trong vinh quang, chiến thắng hay tán dương ca tụng. Thần tính nơi Người chiếu soi bất cứ khi nào nhân tính của Người bị hạ nhục. Mối liên hệ có tự bản chất này chạy dọc suốt cuộc đời của Người. Nếu Người đã sinh ra bởi một nữ tì hèn mọn nơi hang bò lừa, thì lại có các Thiên Thần của trời cao loan báo vinh quanh của Người; nếu Người tự hạ nằm trong máng cỏ, và bên lũ bò lừa thì lại có vì sao soi sáng dẫn đường để những người dân Ngoại đến chầu Người như một Thượng Hoàng. Nếu Người đói và bị cám dỗ nơi hoang địa, thì lại có các thiên thần đến hầu hạ Người; nếu máu Người tuôn đổ nơi vườn Cây Dầu thì đó lại là vì Cha Trên Trời trao cho Người cái chén; nếu Người bị bắt vì giờ đã đến, thì có cả ngàn vạn vệ binh Thiên Thần giải thoát Người nếu như Người không muốn hiến thân chết cho nhân loại; nếu Người tự hạ như một người có tội để lãnh nhận phép rửa từ Gioan, thì lại có tiếng nói từ trời cao tuyên bố sự vinh quang của Người Con Đấng không cần sự thanh tẩy; Nếu những người trong phố chối từ Người và muốn xô đẩy Người té xuống từ mỏm đá cao thì lại có sức mạnh siêu nhiên để Người bước xa khỏi đám đông mà không hề hấn gì; nếu Người bị đóng đinh trên thập giá, thì không gian nên tối tăm vì mặt trời hổ thẹn không thể chiếu sáng và trái đất đã rung lên trong phản đối chống lại việc các thụ tạo đã đối xử với Đấng Tạo Hóa; Nếu Người được mai táng trong mồ, thì lại có các thiên thần loan báo việc Người sống lại.
Cái làm cuộc đời của Đức Kitô nên độc đáo là việc thiết lập triều đại của Người ở trần gian và trên trời, nơi sự thống khổ và cái chết của Người đã được xếp đặt theo qui trình. Chiến thắng sự dữ, bằng cách tiếp nhận sự tàn ác nhất của sự dữ đã làm cho Người nên vai trò thay thế và đại diện. Như lời tiên tri I-sa-i-a, Người nói Người đến để bị coi như “đồng hàng với những phường tội lỗi.” Nhưng việc chiến thắng sự dữ của Người, qua Thập Giá, sẽ truyền sang cho những người muốn tái diễn cảm nghiệm của việc vác thập giá trong đời sống của họ.
Thập Giá có mặt mọi nơi trong cuộc đời của Người. Người đã không thể dễ dàng nói về nó, vì khi Người nói, thì ngay cả những người thân cận nhất của Người, là các môn đệ, cũng không hiểu. Lần đầu tiên công bố về việc Người đến để chịu chết là khi những người Biệt Phái tranh luận với Người về chế độ ăn uống. Họ đã phàn nàn với các môn đệ là Người đã ăn uống với những người tội lỗi. Họ đồng lòng với việc ăn chay kiêng cữ theo giáo thuyết của Gioan Tẩy Giả, và đã than phiền với Chúa và các môn đệ của Người là tại sao họ ăn uống trong khi các đồ đệ của Gioan thì lại ăn chay. Một người sùng đạo ở Is-ra-en ăn chay mỗi tuần hai lần, vào ngày thứ Hai và thứ Sáu. Đây là hai ngày được coi là thời gian ông Mai-sen lên núi Si-na-i. Rõ ràng là Chúa Giêsu và các môn đệ của Người đã không kiêng cữ giống như Gioan Tẩy Gỉa. Điều này đã khiến cho những người Biệt phái sau này than phiền là Người là người thích ăn nhậu chè chén. Câu trả lời của Chúa cho thắc mắc tại sao các môn đệ của Người không ăn chay kiêng cữ có tầm kích quan trọng hơn là khi vừa mới thoạt nghe.
Đức Giê-su trả lời: "Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được”. (Mc 2:19).
Người tự gọi mình là “Chàng Rể.” Những người Biệt Phái, am tường Cựu ước, rất quen thuộc với ý tưởng đó. Mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Is-ra-en luôn luôn là liên hệ giữa Chàng Rể và Cô Dâu. Hơn bẩy thế kỷ trước, tiên tri Hô-sê-a đã nghe Chúa nói với dân Is-ra-en:
Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu,
Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực,
trong ân tình và xót thương; Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành,
và ngươi sẽ được biết ĐỨC CHÚA. (Hôsêa 2:21-22).
Lời của tiên tri I-sa-i-a cùng với những vị khác cũng nói về mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Is-ra-en trong bối cảnh liên hệ chàng rể và cô dâu.
Quả thế, Đấng cùng ngươi sánh duyên cầm sắt
chính là Đấng đã tác thành ngươi,
tôn danh Người là ĐỨC CHÚA các đạo binh;
Đấng chuộc ngươi về, chính là Đức Thánh của Ít-ra-en,
tước hiệu Người là Thiên Chúa toàn cõi đất. (Isaia 54:5).
Những người nghe Người đều biết điều Người đang nói, Người là Thiên Chúa. Người là Chúa, Đấng mà Is-ra-en đã lập hôn ước. Người bước vào vai vế và ngôi vị của Thiên Chúa trong Cựu ước, tuyên bố những quyền hạn và ân huệ. Chúa cũng nói những lần khác đề cập đến việc chính Người là Chàng Rể trong dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử, và trong dụ ngôn mười trinh nữ đi đón Chàng Rể khi Chàng Rể đến trễ. Gioan Tẩy Gỉa trước đó, khi ông thấy Chúa Giêsu, cũng đã nhận diện Đức Kitô trong hình ảnh của Chàng Rể ở Cựu ước, khi ông nói:
Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của tôi, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi. (Ga 3:29).
Gioan Tẩy Gỉa chỉ là bạn của Chàng Rể, hay là người “phù rể” trong hôn lễ, hay là sứ giả của Đấng Cứu Thế. Nhưng chính Đức Kitô mới là Chàng Rể, vì khi mang lấy bản tính con người ở Bêlem, mà trước đó chưa từng làm người, Người đã lập hôn ước với toàn thể nhân loại. Cho đến thời điểm khi tội lỗi được tẩy xóa và Chàng Rể đón nhận Hôn Thê của Người để tái sinh nhân loại, hay Giáo Hội, Gioan đã chuẩn bị cho các cuộc đính hôn. Thánh Phao-lô sau này miêu tả chính người đóng vai trò giống như Gioan Tẩy Giả, chỉ khác là vai trò của Phaolô trong mối liên hệ với Giáo Đoàn Corintô:
Thật thế, vì anh em, tôi ghen cái ghen của Thiên Chúa, bởi tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Ki-tô, để tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết. (2Cor 11:2).
Dân Is-ra-en xưa là Cô Dâu trở nên dân Is-ra-en mới, là Giáo Hội, và đến cuối thời, những cuộc hôn ước giữa Chàng Rể và Cô Dâu sẽ được cử hành trên trời:
Vì nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên,
và Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng,
nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền." (KH 19:7).
(Áo vải sáng chói biểu tượng những việc công chính của dân Chúa).
Trả lời cho câu hỏi của những người Biệt Phái lý do các môn đệ của Người không ăn chay là vì họ không u buồn; đúng vậy, họ đang hạnh phúc, vì Thiên Chúa đang đồng hành sánh bước với họ ở trần gian. Khi Người còn ở với họ, thì chỉ có vui mừng. Nhưng nó không kéo dài luôn mãi như thế ở trần gian. Người đến để chịu chết. Một lần nữa, lại có sự nối kết không phân ly giữa Cây Thánh Giá và sự vinh quang. Và Người nói về cái chết của mình:
Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó. (Mc 2:20).
Chàng Rể sẽ bị đóng đinh; Người sẽ khai chiến chống lại những quân binh của thần dữ và sẽ quyết chiếm giữ Hôn Thê của Người. Từ niềm vui của bữa tiệc các môn đệ của Người sẽ trải qua nỗi u sầu của chay tịnh khi Chàng Rể bị đánh và đè bẹp.
Đây là lời công bố đầu tiên về cái chết của Người. Mục đích thứ nhất trong câu trả lời cho những người Biệt Phái không phải để nhấn mạnh đến việc ăn chay kiêng cữ, nhưng là để công bố việc ra đi của Chàng Rể. Người đã ám chỉ rằng cái chết của Người không phải là nhát búa giáng của định mệnh, nhưng là một phần tất yếu trong sứ vụ cứu chuộc của Người. Lúc Chúa nói về niềm vui của tiệc cước, Người đã nhìn vào cái vực sâu thẳm của Thập Giá và đã thấy chính mình chết treo trên đó. Bóng hình Thập Giá không bao giờ rời xa Người, ngay cả khi Người sung sướng hạnh phúc như Chàng Rể. Ngày Thứ Sáu Chịu Nạn và Ngày Phục Sinh khải hoàn lại một lần nữa liên kết với nhau, nhưng đảo ngược thứ tự. Từ niềm vui Người nhìn đến Thập Giá lúc Người công bố lần thứ nhất về chính Người như Chàng Rể. (Và bây giờ là thời điểm cho các môn đệ của Người sống trong chay tịnh!)