Đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự. Vậy thì đâu thực sự là đền thờ của Thiên Chúa? Có phải ngôi đền thờ vĩ đại ở Giêrusalem với những nguy nga tráng lệ lộng lẫy là đền thờ chính thật? Trả lời cho câu hỏi này đương nhiên là điều qúa hiển nhiên đối với người Do Thái; nhưng với Chúa Giêsu thì còn một ngôi đền thờ khác. Khách hành hương đang đi lên Giêrusalem để dự lễ Vượt Qua; Chúa Giêsu và các môn đệ của Người cũng cùng đi với họ, sau một lúc nghỉ chân ở Ca-pha-na-um. Ngôi đền thờ quả là một quang cảnh lộng lẫy, nhất là sau khi tái thiết lại, vua Herod đã trang trí tô điểm thêm vào. Một năm sau, khi các môn đệ đứng nhìn từ núi Olivet, đã trầm trồ chỉ vào đền thờ và nói với Chúa về sự lộng lẫy huy hoàng nguy nga của nó chan hòa chiếu tỏa dưới ánh sáng bình minh.
Bất cứ ai đến đền thờ để dâng của lễ cũng thường gặp khó khăn tìm những thứ cần cho việc dâng của lễ; thêm nữa những con vật được dùng để tế lễ cũng cần phải được kiểm duyệt thẩm định theo đúng lề luật. Bởi thế, đã có rất nhiều cảnh buôn bán những con vật được dùng để làm của lễ. Dần dần những người buôn bán chiên và chim bồ câu cứ lấn tiến gần hơn về phía đền thờ, làm tắc nghẽn những lối cổng vào đền thờ, cho đến khi một số người trong nhóm buôn bán, cách riêng là những người con của Annas, tiến chiếm lối cổng Solomon, nơi mà họ bán những con chim bồ câu, chiên cừu và đổi tiền. Mọi khách hành hương đều buộc phải trả tiền để giúp trang trải tốn phí cho đền thờ; theo sử gia Josephus cho chúng ta biết, tiền nước ngoài không được dùng để mua bán tại đền thờ, do đó các con của Annas giữ việc thương lượng đổi chác tiền, thường là với tỉ lệ giá khá cao. Một đôi chim câu có thể được bán với giá một đồng tiền vàng tương đương là hai đô rưỡi. Việc lạm dụng này đã được chấn chỉnh lại bởi người cháu của ông Hillel đệ nhất, ông đã giảm xuống còn khoảng 1/5 so với giá ban đầu. Rất nhiều loại tiền từ các nước khác mang đến đền thờ từ Ty-re, Sy-ri-a, E-gypt, Hy Lạp và Roma khiến nảy sinh ra nạn chợ đen do những người đổi chác tiền bạc. Tình trạng đã trở nên đồi tệ đến nỗi Đức Kitô đã nói đền thờ trở nên “hang trộm cướp”; trên thực tế, chính Tulmud đã chống lại những người làm ô uế đền thờ.
Khá nhiều nhộn nhịp khuấy động trong đoàn người hành hương khi họ thấy Chúa Giêsu đi vào khuôn viên đền thờ. Đây là lần xuất hiện công khai đầu tiên có tính cách quốc gia và nơi đền thờ trong vai trò là Đấng Cứu Thế. Người đã thực hiện phép lạ đầu tiên ở Cana; bây giờ Người bước vào nhà của Cha Người trong tư cách là Người Con. Chúa của chúng ta thấy mình ở trong bối cảnh bất tương đồng, nơi cầu nguyện lại bị xen lẫn với việc đổi chác mua bán của các con buôn, tiếng kêu leng keng của các đồng bạc chen lẫn với tiếng kêu của súc vật đã bao trùm bầu khí nhà của Cha Người. Cầm lấy mấy sợi giây thấy ở đó, có lẽ đã được dùng để cột bò xích lừa, Người bện lại thành sợi giây thừng. Với sợi giây thừng trong tay, Người tiến ra xua đuổi đoàn súc vật và những người buôn bán. Vì sợ dư luận quần chúng, nên những người lợi dụng thời cơ để buôn bán đổi chác đã không dám chống lại việc làm của Đấng Cứu Thế. Cảnh hỗn độn làm cho đoàn súc vật chen lấn tìm lối chạy, và những người đổi tiền vội thu quén những đồng bạc của họ khi Chúa xô đẩy lật bàn lật ghế của họ. Người mở cửa lồng chim câu để thả chúng bay đi.
Người nói, Hãy cất hết tất cả những thứ này đi. Các ngươi không được biến nhà của Cha Ta thành nơi buôn bán (Ga 2:16).
Ngay cả những người thân cận với Người cũng phải ngỡ ngàng khi họ thấy, với sợi giây thừng được vung lên và ánh mắt giận dữ, Người xua đuổi người và vật với lời la mắng:
Nhà của Ta chẳng được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc hay sao? Vậy tại sao các người lại biến thành hang trộm cướp? (Mc 11:17).
Các môn đệ nhớ lại những lời của Thánh Kinh, “Sự sốt sắng nhà Chúa làm hao tổn thân tôi” (Ga 2:17).
Khu vực của đền thờ, nơi mà Chúa Giêsu xô đẩy đuổi những người buôn bán được gọi là Hành Lang Salomôn, ở phía đông thuộc khu vực dành cho Dân Ngoại. Khu vực này được dùng như biểu tượng cho thấy rằng các dân mọi nước trên thế giới đều được chào đón; nhưng việc làm ăn của các con buôn đã làm nó trở nên ô uế. Người muốn làm sáng tỏ cho thấy đền thờ là để cho mọi dân tộc chứ không phải chỉ là riêng cho người ở Giêrusalem mà thôi. Đó là nhà cầu nguyện cho các nhà khôn ngoan cũng như cho các mục đồng, cho sứ vụ truyền giáo phương xa cũng như những sứ vụ ở địa phương.
Người đã gọi đền thờ là “Nhà của Cha Ta,” cùng một lúc xác nhận tình liên hệ mật thiết của Người với Cha trên trời. Những người bị đuổi ra khỏi đền thờ đã không dám đụng đến Người, cũng chẳng dám khiển trách là Người đã làm sai. Họ chỉ yêu cầu Người cho họ một dấu hay một sắc lệnh để chứng minh cho hành động của Người. Lúc Người đứng thẳng thắn nghiêm nghị, giữa những đống tiền tung rơi và bầy im câu bay tán loạn, họ đã chất vấn Người,
Lấy dấu gì để chứng minh là ông có quyền làm như thế? (Gio 2:18).
Họ đã thất kinh thấy Người có thể nổi giận như thế (khi đem so với việc Người làm gây niềm vui cho khách dự tiệc ở Cana), và họ đã đòi một dấu chứng minh. Và Người đã cho họ dấu nói lên rằng Người là Thiên Chúa, khi Người nói với họ là họ đã làm ô uế nhà của Cha Người. Xin một dấu nữa thì chẳng khác gì là xin ánh sáng để thấy ánh sáng. Nhưng Người cũng cho họ dấu thứ hai:
Hãy phá đền thờ này đi, Chúa Giêsu nói, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại. (Ga 2:19).
Những người nghe lời này đã không thể quên. Ba năm sau, lúc xử án, họ đã nhắc lại một cách hơi thiếu trung thực để tố cáo Người là:
Ta sẽ phá đền thờ do bàn tay của con người, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng một cái khác, không phải do tay người phàm (Mc 14:58).
Họ cũng nhớ lại lời của Người lúc bị treo trên Thập Giá:
Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: "Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi! " (Mc 15:29).
Họ vẫn còn bị áy náy lo ngại về lời của Người khi họ xin Philatô cẩn thận canh gác mồ chôn xác Người. Lúc đó họ đã hiểu là Người không có ý nói về đền thờ bằng đá, nhưng là chính Thân Thể của Người.
Hôm sau, tức là khi ngày áp lễ đã qua, các thượng tế và những người Pha-ri-sêu kéo nhau đến ông Phi-la-tô, và nói: "Thưa ngài, chúng tôi nhớ tên bịp bợm ấy khi còn sống có nói: ‘Sau ba ngày, Ta sẽ trỗi dậy.’ Vậy xin quan lớn truyền canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắn đến lấy trộm xác rồi phao trong dân là hắn đã từ cõi chết trỗi dậy”. (Mt 27:63-64).
Chủ đề về đền thờ lại được vang lên lần nữa lúc xét xử cuộc tử đạo của Stêphanô, khi những người công tố viên tố cáo rằng:
Họ đưa mấy người chứng gian ra khai rằng: "Tên này không ngừng nói những lời phạm đến Nơi Thánh và Lề Luật. (TĐCV 6:13).
Người đã thách thức họ khi Người nói với họ: “Hãy phá đổ!” Người không nói là “Nếu các ngươi phá đổ . . .” Người đã trực tiếp thách thức họ thử uy quyền tư tế và vương đế của Người bởi việc đóng đinh trên thập giá và Người sẽ trả lời họ bằng việc sống lại.
Điểm quan trọng cần chú ý là trong bản Tin Mừng bằng tiếng gốc Hy Lạp, Chúa Giêsu đã không dùng từ ngữ hieron, là tiếng dùng để nói về đền thờ, nhưng Người dùng từ ngữ naos, có nghĩa là nơi Thánh trong tất cả những cái thánh của đền thờ. Người thực có ý nói, “Đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự. Các ngươi đã làm ô uế đền thờ này; nhưng còn một đền thờ khác. Hãy phá cái đền thờ này đi, bằng việc đóng đinh Ta, và trong ba ngày Ta sẽ làm cho sống lại. Dù các ngươi có tàn phá thân xác của Ta, đó là nhà của Cha Ta, qua việc sống lại Ta sẽ kết nạp tất cả mọi quốc gia dân tộc vào đền thờ mới này.” Rất có thể là khi nói như thế Chúa đã dùng ngón tay để chỉ vào chính thân thể của Người. Các đền thờ có thể được xây dựng bằng xương bằng thịt cũng như bằng đá gỗ. Thân Thể của Chúa Kitô là một Đền Thờ, bởi vì sự sung mãn của Thiên Chúa sống trong Người. Những người chống đối Người đã phản bác lại:
Đền thờ này phải mất đến 46 năm mới hoàn tất. Ông có thể xây dựng lại trong ba ngày hay sao? (Ga 2:21).
Đền thờ Giêsusalem thứ nhất liên quan đến các vua cha ông như David người đã chuẩn bị, và Salômôn người xây dựng lên. Đền thờ thứ hai được khởi xướng tái thiết do các vị lãnh đạo sau khi trở về từ lưu đầy; đền thờ được tái thiết này với sự tráng lệ nguy nga được gắn liền với triều đại của đời vua Hêrôđê. Tất cả những bóng phủ các đền thờ này đều bị kém giá so với Đền Thờ chân thật, mà họ sẽ phá đi trong Ngày Thứ Sáu Thánh. Ngay lúc nó bị tàn phá, màn che Đấng Thánh của các sự thánh sẽ bị xé rách ra làm đôi, tỏ lộ rõ Đấng Thánh của các sự thánh, Thánh Tâm của Con Thiên Chúa.
Cũng cùng hình ảnh đền thờ đó trong một dịp khác khi Người nói với những người Pharisiêu:
Ta bảo thật các người, ở đây còn có cái cao trọng hơn cả đền thờ (Mt 12;6).
Đây là cách mà Người trả lời khi họ đòi Người cho họ một dấu chứng. Dấu chứng đó là chính cái chết và sự sống lại của Người. Sau này đối với những người Pharisiêu, Người đã hứa cho họ cùng một dấu, dưới dạng dấu của Giona. Uy quyền của Người không phải là được chứng minh nguyên bởi cái chết của Người; nhưng được chứng minh bởi cái chết và sự sống lại của Người. Cái chết của Người là do sự gian ác của lòng con người cùng với sự tự nguyện của riêng Người; Sự sống lại là do duy quyền năng vô hạn của Thiên Chúa mà thôi.
Lúc này Người gọi Đền Thờ là nhà của riêng Cha Người. Sau ba năm, khi Người rời bỏ nó lần cuối, Người đã không còn gọi đó là đền thờ của Cha Người, bởi vì người ta đã chối từ Người; nhưng Người đã nói,
“Hãy nhìn coi! Nhà của các ngươi sẽ bị bỏ hoang mặc cho các ngươi!” (Mt 23:38).
Nó không còn phải là nhà của Cha Người nữa, nó đã trở nên nhà của họ. Đền thờ ở trần thế không còn là nơi ngự trị của Thiên Chúa nữa khi mà nó trở nên trung tâm của những người mua bán. Không có Người thì nó không còn là đền thờ nữa.
Ở đây cũng như ở những chỗ khác, Chúa Giêsu đã cho biết chỉ duy có mình Người là Đấng đến trần gian để chịu chết. Thánh giá không phải chỉ là điều xẩy ra vào lúc cuối đời của Người; nó là cái đã từng ở trước mặt Người ngay từ ban đầu. Người đã nói với họ: “Hãy phá nó đi,” và họ bảo Người, “Hãy đóng đinh nó.” Chẳng có đền thờ nào đã từng bị phá hủy cách hệ thống hơn là chính thân thể Người. Chiếc mái cung bọc đền thờ, đầu của Người đã đội vòng gai; nền móng của nó là đôi chân thánh của Người đã bị đóng đinh, cánh hiên là đôi tay của Người, đã bị kéo giang ra theo hình thánh giá; cung thánh của nơi thánh, là trái tim Người, đã bị đâm thâu bởi lưỡi đòng.
Satan đã cám dỗ Người làm hy tế giả tạo bằng cách xui Người gieo mình xuống từ trên tháp cao của đền thờ. Chúa đã từ chối kiểu hiến tế theo hình thức tìm hư danh như thế. Nhưng khi những người làm ô uế nhà Cha của Người xin Người cho một dấu chứng, Người đã cho họ một loại dấu chứng khác, đó là dấu chứng Người hiến tế trên Thập Giá. Satan đã xúi Người gieo mình xuống; và lúc này Người nói, được Người sẽ làm, Người sẽ gieo mình chịu chết nhục nhã; tuy nhiên, sự hy sinh hiến tế của Người không phải là một việc phô trương vô nghĩa, nhưng là một việc làm tự hạ để cứu chuộc. Satan đã dụ dỗ Người phô diễn Đền Thờ của Người đến độ liều tiêu hủy để được nổi tiếng vì phô trương; nhưng Chúa lại phô diễn đền thờ Thân Thể Người đến độ tiêu hủy để cứu chuộc và làm của lễ đền bồi. Ở Cana, Người nói rằng Người sẽ chờ đến giờ của Người; tại đền thờ Người nói rằng giờ của Thập Giá sẽ đưa Người đến sự sống lại. Đời sống công khai của Người đã làm vuông tròn những lời tiên báo này!
.