Hai bữa tiệc được tổ chức ở Ga-li-lê trong cùng một năm: một ở trong cung điện của Herođê nơi Gioan đã rao giảng; một ở ngoài trời do chính Chúa Giêsu thiết đãi. Người đã băng qua biển hồ Ga-li-lê, rất có thể để tránh sự giận dữ của Herođê người đã giết Gioan, Và đám đông đi theo Người vì họ đã thấy những dấu lạ Người làm để chữa lành những người đau yếu bệnh tật (Ga 6:2).
Động lực đi theo Người hơi có vẻ lẫn lộn; nhưng có chiều hướng đám đông tin Người là Đức Kitô. Họ thấy như hơi thất vọng khi Người cùng các môn đệ rút lui vào vùng núi để nghỉ. Đoàn đội binh Tin Mừng đã tạm ngừng chân để những người lái đò nghỉ ngơi. Vì Lễ Vượt Qua gần đến và nhiều người đang trên đường đến Giê-ru-sa-lem, đám đông lên tới năm ngàn người (chưa kể đàn bà và trẻ em).
Họ đi đến một phố nhỏ cách hồ Ca-phar-na-um khoảng sáu dặm. Chúa rời khỏi thuyền khi vừa đến bờ, đám đông đã tụ họp ở đó chờ đón Người. Họ mang đến cho Người những người yếu đau bệnh tật, và ai cũng mệt và đói. Họ không để Người nghỉ ngơi, không phải vì họ tin Người là Con Thiên Chúa, nhưng vì họ coi Người như một người có quyền phép với khả năng làm những việc khác thường, như một lang y có thể chữa lành những người yếu đau.
Người thấy thương họ, vì họ giống như đàn chiên không có người chăn (Mc 6:34).
Người tổ chức cho đám đông xếp hàng ngồi thành từng nhóm khoảng một trăm năm chục người, hàng sau ngồi cao hơn hàng trước một chút. Chúa Giêsu đứng ở giữa họ. Người hỏi thử Philip:
Chúng ta tìm đâu ra bánh cho những người này ăn? (Ga 6:5).
Philip đã đếm nhanh và phỏng đoán là phải mất ít nhất hai trăm đồng để mua bánh cho từng ấy người. Chúa Giêsu không hỏi, “Cần phải có bao nhiêu tiền?” nhưng “Tìm đâu ra bánh?” Có lẽ Philip nên trả lời, Thầy, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại và chữa lành những người yếu đau có thể cung cấp bánh. Anrê đã chỉ vào một cậu bé có năm chiếc bánh lúa mì và hai con cá. Cũng thế, Anrê, đã tính nhẩm và nói:
Nhưng có nhiêu đó thì sao đủ cho từng ấy người? (Ga 6:9).
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã dùng những cái tầm thường và không quan trọng để hoàn thành các mục đích của Người, giống như lá cờ nhỏ trên chiếc nôi rơm đứa bé nằm đã chiếm được con tim của con gái vua Pha-ra-on, hay chiếc gậy chăn chiên của Mai-sen đã làm những phép lạ ở Egypt, hoặc sợi giây phóng sỏi của David đã đánh bại quân Philintine. Lúc này liên quan đến bánh, nó cũng có sự liên quan tương đồng trong cách thức sau này được dùng ở Bữa Tiệc Ly.
Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người. (Mc 6:41).
Như hạt lúa miến từ từ tăng bội trên đất ruộng, thì bánh và cá, nhờ cách biến chế nhanh của Thiên Chúa đã làm tăng bội lên cho đến khi mọi người được no đủ. Nếu Người cho tiền, có lẽ không ai được ăn no. Theo lẽ tự nhiên ta cần làm bao nhiêu có thể, và Thiên Chúa sẽ cấp dưỡng những gì còn lại. Người đã truyền cho họ thu lại những mẩu bánh vụn còn dư; họ đã thu được mười hai thúng. Theo con người thì luôn luôn có sự thiếu hụt; trong cách tính toán của Thiên Chúa thì lại luôn luôn dư giả.
Ảnh hưởng của phép lạ trên dân chúng rất lạ lùng. Không ai chối là nơi Đức Kitô có quyền lực của Thiên Chúa; Người đã tỏ quyền lực đó ra nơi phép lạ làm cho bánh hóa nhiều. Họ nhớ lại câu truyện về Mai-sen, người đã ban cho cha ông họ ma-na trong sa mạc. Và Mai-sen đã chẳng nói rằng ông là hình ảnh báo trước về Đức Kitô hay Đấng Thiên Sai đó sao?
Từ giữa anh em, Thiên Chúa là Chúa của anh em sẽ ban cho anh em một vị ngôn sứ giống như tôi, và anh em sẽ nghe theo người. (DNL 18:15).
Nếu Mai-sen đã xác nhận và đóng dấu ấn chính ông với bánh nơi sa mạc, thì không phải chính đây là Đấng mà Mai-sen đã nói đến hay sao, vì Người cũng cho họ bánh cách lạ lùng? Như vậy thì còn ai khác có thể là vua tốt hơn giúp họ lật đổ ách thống trị của người Roma và giải thoát họ? Đây chính là Người Giải Cứu, vĩ đại hơn cả Gio-su-ê, và có cả năm ngàn người đàn ông sẵn sàng mang khí giới; đây là một vị Vua vĩ đại hơn cả David hay Salômôn, Đấng có thể nổi dạy chống lại các cường quyền và giải phóng dân tộc. Họ nhìn nhận Người như một Tiên Tri và một bậc Thầy; bây giờ họ sẽ tuyên dương Người là Vua. Nhưng Đấng đọc được tâm tư con người đã biết cái tham vọng trần tục của họ.
Đức Giêsu, biết họ có ý đến để bắt giữ Người lại và tuyên nhận người là vua, nên đã lẩn tránh đi khuất vào miền núi (Ga 6:15).
Họ không thể tôn Người là Vua; vì Người là Vua; Người đã sinh ra để làm Vua. Những nhà khôn ngoan biết điều đó nên họ đã hỏi:
Hài Nhi Vua dân Do Thái mới sinh ra ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người, và đến để triều bái Người? (Mt 2:2).
Vương miện của Người buộc phải đến qua Thập Giá, chứ không phải do sức mạnh của quần chúng. Đây là lần thứ hai Người từ chối vương miện; lần thứ nhất khi Satan phong cho Người làm vua thế gian, nếu Người đồng ý qùi gối xuống thờ lậy hắn. “Nước của Ta không thuộc về thế gian này,” Người xác nhận với Phi-la-tô sau này. Nhưng dân chúng muốn bắt Người ngồi lên ngai; Người nói Người không thể bị cưỡng ép; Người sẽ được treo lên và ngai tòa của Người là Cây Thập Giá, và sự cai trị của Người là ở các tâm hồn.
Rất có thể sự từ chối làm vua theo lối chính trị trần thế đã là lý do gieo vào đầu của Giu-đa cái ngờ vực; vì chính trong sự liên hệ với phép lạ này, và với bài giảng của Chúa tiếp theo, mà Giu-đa đã được miêu tả là kẻ phản bội. Vì Chúa không nhận một vương quốc tạm thời mau qua như Satan hứa cho Người, Người đã chuẩn bị cho chính mình để nghe lời la thét sau này, “Chúng tôi không có Vua nào khác ngoài Caesar.”
Chúa biết dân chúng nghĩ gì, nên Người lẩn tránh vào miền núi thanh vắng một mình. Không bàn tay ô uế nào được đặt triều thiên trên đầu người, ngoại trừ mão gai. Nhưng để dạy các môn đệ rằng cả họ cũng không được chạy theo cái ngưỡng mộ rẻ tiền của quần chúng, Người truyền cho họ xuống thuyền và đi qua bờ bên kia, một khoảng cách xa chừng năm đến sáu dặm. Nhưng Người đã không cùng đi với họ.
Khoảng giờ thứ ba đến giờ thứ sáu trước khi trời sáng, lúc họ đang chèo thuyền, ướt đẵm và mệt mỏi trong thuyền, một cơn giông bão đổ đến. Đây là lần giông bão thứ hai họ đối đầu trên biển hồ sau khi được mời gọi làm môn đệ; lần thứ nhất khi Chúa đến thăm trước đó. Cả hai lần giông bão đều xẩy ra trong lúc đêm tối và mưa bão lớn. Giông bão phải thật lớn mới có thể làm cho những người này sợ hãi vì họ là những người hành nghề đầy kinh nghiệm nơi biển cả. Có lẽ không phải chỉ là gió báo đã làm cho họ lo sợ, mà còn là việc Thầy của họ lại từ chối không nhận làm Vua. Có thể họ cũng nghi ngờ quyền lực của Đấng đã làm cho bánh hóa nhiều, và sai họ đi qua bờ bên kia trong đêm giông bão. Nếu Người có thể làm cho bánh hóa nhiều, thì tại sao Người không thể ngăn chặn bão gío?
Vì việc Chúa rời bỏ họ và lại nhanh chóng đến với họ giữa biển nước lúc đêm khuya, đối với họ, đó là điều không thể xẩy ra giống như việc Người đã chết rồi sống lại. Nhưng bất thình lình, khi đang vất vả chống trả với sóng gió, họ trông thấy Người đi trên nước đến với họ. Họ đã sợ hãi hốt hoảng. Người nói với họ:
Thầy đây; đừng sợ. Rồi họ đón Người vào thuyền, và bỗng nhiên thuyền đến bờ nơi họ muốn đến (Ga 6:20).
Nhóm thủy thủ đã không cô độc như họ đã nghĩ. Nhịp điệu vui mừng và sầu muộn tỏ ra trong cuộc đời của Người lại thấy ở đây; vì giữa lúc đêm khuya, giông bão, và nguy hiểm thì Chúa Kitô đến, bước đi trên những ngọn sóng biển bạc đầu đang trổi lên. Lúc này Người tỏ cho họ thấy quyền lực của Người:
Các ông quì sụp xuống la lên, quả thật Thầy là Con Thiên Chúa (Mt 14:33).
Họ không những chỉ biết Người là Đấng Thiên Sai được mong đợi, nhưng cũng nhận biết Người là Con Thiên Chúa nữa. Một vài người trong nhóm của họ đã là đồ đệ của Gioan Tẩy Giả, và đã nghe tiếng Chúa Cha nói, lúc Người chịu phép rửa, đây là Con Thiên Chúa. Rất có thể một số người trong nhóm của họ cũng có mặt lúc tên qủi tuyên bố Người là Con Thiên Chúa. Na-tha-na-en cũng đã cho Người danh hiệu này.
Cũng trong dịp này Phê-rô, khi ông thấy Chúa và trước khi Người bước vào thuyền, đã xin Người cho ông đi trên nước đến với Người. Chúa đã truyền cho Phê-rô đi đến; nhưng chỉ trong chốc lát Phê-rô đã bị lún chân chìm dần xuống. Tai sao thế? Bởi vì ông sợ khi giông bão mạnh; vì ông quan tâm lo đến những khó khăn tự nhiên; vì ông không tin vào quyền năng của Thầy và không để mắt nhắm thẳng nơi Người.
Nhưng khi ông thấy sóng bão trổi lên qúa mạnh ông qúa sợ hãi; và bắt đầu chìm xuống . . . (Mt 14:30).
Ông đã kêu hoảng lên xin Chúa cứu giúp:
Lậy Thầy xin cứu con. Chúa Giêsu liền đưa tay ra nâng kéo ông và nói, “Sao lại nghi nan? Ngươi qúa kém lòng tin! (Mt 14:31).
Giải thoát trước; khiển trách sau; và có lẽ kèm theo nụ cười trên gương mặt và tình yêu thương từ giọng nói. Nhưng đây không phải là lần duy nhất Phê-rô đã nghi ngờ về Thầy, Người mà ông rất yêu quí. Người mà ông đã xin được đi trên nước để đến ngay với Chúa và sau này lại thề thốt là ông sẵn sàng đi tù và chịu chết vì Người. Mạnh dạn trong thuyền nhưng lại nhút nhát trên nước, sau này ông lại quả quyết ở Bữa Tiệc Ly, nhưng hèn nhát trong đêm đang lúc luận xử. Cảnh xẩy ra ngoài biển hồ là một tập dượt cho lần sa ngã khác của Phê-rô.
Dân chúng vẫn còn muốn tôn Người lên làm Vua khi họ thấy Người ở Capharnaum ngày hôm sau. Qua lời thăm dò của họ là làm thế nào mà Người đã đến được nơi đó, câu trả lời của Người đã khiển trách những ai có ý nghĩ tôn giáo trước tiên chỉ thuộc lãnh vực bếp núc và ăn uống.
Thật vậy Ta biết là các người tìm ta không phải vì đã xem thấy những dấu lạ, nhưng vì đã dược ăn bánh no nê (Ga 6:26).
Họ đã không coi phép lạ như một dấu chỉ vào Thiên Tính của Người; họ tìm kiếm Người chứ không phải là nhìn vào Người. Ông Job đã thấy Chúa trong sự mất mát cũng như lúc được sung túc. Dân chúng lại chỉ thấy Người như phương tiện để thỏa mãn nhu cầu cơm bánh, chứ không phải là sự đói khát của tâm hồn. Sự hào hứng bề ngoài không phải là tôn giáo; nếu là tôn giáo, một lời chúc tụng “Alêluia” ngày Chúa Nhật cũng có thể trở nên một cuộc đóng đinh ở Ngày Thứ Sáu.
Chúa nói với họ:
"Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6:27).
Người đã nêu lên cho họ hai loại bánh: loại bánh có thể mất đi, và loại bánh có thể tồn tại muôn đời. Người cảnh giác họ tránh theo Người như một con lừa bước theo ông chủ đang cầm củ cà-rốt. Để hướng tâm trí nhục thể lên đến thực phẩm muôn đời, Người đề nghị họ tìm Bánh Nước Trời mà Chúa Cha chứng nhận hay đã niêm ấn. Bánh ở Đông Phương thường được đóng dấu xác nhận bởi thẩm quyền hay là tên của người làm bánh. Tiếng Tulmudic chỉ về người làm bánh có liên hệ đến từ ngữ “đóng dấu.” Giống như bánh được dùng trong Thánh Lễ có dấu in trên đó (với hình con chiên hay cây thánh giá), Chúa cũng ám chỉ rằng Bánh họ nên tìm kiếm là Bánh được chứng nhận bởi Chúa Cha, bánh đó là chính Người.
Họ muốn biết thêm dấu chứng cho biết là Chúa Cha đã chứng nhận Người; Người ban phát bánh, đúng thế, nhưng nó không lạ lùng đủ. Mai-sen đã chẳng cho bánh từ trời đó sao? Lý luận của họ là: Người lấy dấu gì để chứng minh là Người còn hơn cả Mai-sen? Bởi thế, họ đã coi nhẹ cái phép lạ ngày hôm trước, bằng việc so sánh Người với Mai-sen, và bánh Người ban cho họ với bánh Ma-na trong sa mạc. Chúa chỉ cho dân chúng ăn một lần, còn Mai-sen đã cho dân chúng ăn suốt bốn mươi năm. Ở sa mạc, dân chúng luôn gọi bánh là “mana,” nghĩa là “Cái gì thế?” Nhưng một lần họ đã chán ngán mana, và họ gọi nó là “bánh chán ngán”; và bây giờ họ làm cho món qùa này nên tầm thường. Chúa đã thách thức họ; Người nói ma-na mà họ đã lãnh nhận từ Mai-sen không phải là Bánh Bởi Trời, cũng chẳng phải là nó đến từ trời; hơn nữa, nó chỉ giúp nuôi sống một dân tộc trong một thời gian ngắn. Quan trọng hơn nữa, không phải là Mai-sen đã cho họ ma-na nhưng là chính Cha của Người. Sau hết, Bánh mà Người ban sẽ nuôi sống muôn đời. Khi Người nói cho họ biết Bánh chân thật đến từ trời, họ đã xin:
“Xin luôn ban cho chúng tôi bánh đó.”
Người trả lời họ:
Ta là Bánh hằng sống (Ga 6:35).
Đây là lần thứ ba Chúa Giêsu dùng thí dụ từ Cựu ước để chỉ về Người. Lần thứ nhất là khi Người ví mình như chiếc thang mà Gia-cop đã nhìn thấy, để tỏ cho biết Người là Đấng Trung Gian giữa trời và đất. Trong cuộc đàm thoại với Ni-cô-đê-mô, Người đã so sánh mình với con rắn đồng, người chữa lành cái thế giới đang chìm đắm và bị đầu độc trong tội lỗi. Bây giờ Người nói đến ma-na trong sa mạc, và tuyên bố Người là Bánh thật trong khi ma-na chỉ là hình ảnh báo trước về Người. Người là Đấng đã nói:
Ta là ánh sáng thế gian (Ga 8:12).
Ta là cửa chuồng chiên (Ga 10:7-9)
Ta là người chăn chiên hiền lành (Ga 10:11-14).
Ta là sự sống lại và là sự sống (Ga 11:25).
Ta là đường; là sự thật và là sự sống (Ga 14:6).
Ta là cây nho thật (Ga 11:25).
Một lần nữa, Người làm cho bóng thập giá xuất hiện. Bánh phải được bẻ vỡ ra; và Người, Đấng đã đến từ Thiên Chúa phải là của lễ hiến tế để con người được nuôi dưỡng bởi Người. Do vậy, bánh đó phải là Bánh do sự tự hiến chính bản thân Người để cứu thế gian khỏi nô lệ tội lỗi và đưa họ vào sự sống mới.
Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được? " Đức Giê-su nói với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết (Ga 6:52-54).
Người không chỉ gợi lên hình ảnh chính Người là Đấng đã đến từ trời mà còn là Đấng đến để trao ban chính Mình Người, hay là để chết. Chỉ ở nơi Đức Kitô Đấng bị chết đi, họ mới hiểu được sự vinh quang của Bánh nuôi sống họ muôn đời. Ở đây Người nói về cái chết của Người; với từ ngữ “trao nộp” bày tỏ hành vi hiến tế. Mình và Máu của Con Thiên Chúa Nhập Thể, bị khổ hình đến chết, đã trở nên nguồn mạch sự sống muôn đời. Khi Người nói, “Mình Ta,” là Người nói về bản tính nhân loại của người, như “Ngôi Lời trở thành Nhục Thể” có nghĩa là Ngôi Lời Thiên Chúa, hay là Ngôi Con mang lấy tính nhân loại. Nhưng đó chỉ vì tính nhân loại ấy sẽ nối kết với Tính Thiên Chúa muôn đời, hầu Người có thể trao ban sự sống vĩnh cửu cho những ai đón nhận Người. Và khi nói Người sẽ trao ban bánh ấy cho sự sống của thế gian, tiếng Hy Lạp được dùng với ý nghĩa “toàn thể nhân loại.”
Lời của Người càng trở nên sầu thảm sâu xa vì lúc đó là mùa Lễ Vượt Qua. Mặc dù người Do Thái nhìn máu huyết cách cung kính, họ dẫn các con chiên của họ lên Giê-ru-sa-lem, nơi máu sẽ được rảy ở cả bốn hướng địa cầu. Cái lạ của lời nói về việc trao hiến thân thể và máu huyết của Người đã làm mờ nhạt cái bối cảnh của Lễ Vượt Qua; Người có ý nói rằng hình bóng con chiên đã qua đi, và vị trí của nó được thay thế bởi Con Chiên Chân Thật của Thiên Chúa. Như họ đã có sự hiệp thông với xác và máu của Con Chiên Vượt Qua, thì bây giờ họ cũng có sự hiệp thông với Thân Xác và Máu Huyết Con Chiên Thật của Thiên Chúa. Người đã được sinh ra ở Be-lem, Be-lem có nghĩa là “nhà làm bánh” và Người được đặt trong cái máng ăn cho súc vật, bây giờ là cho con người, thua kém Người, Người lại là Bánh trường sinh cho họ. Mọi sự trong thiên nhiên đều cần có sự hiệp thông để được sống; và qua đó cái thấp kém hơn được biến đổi nên cái cao cả hơn: các hóa chất đi vào thảo mộc, thảo mộc đi vào súc vật, súc vật đi vào nuôi con người. Và con người thì sao? Không phải họ được nâng lên qua sự hiệp thông với Người, Đấng đã tự hạ xuống từ trời để làm cho con người được tham dự vào bản tính của Thiên Chúa đó sao? Như Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và nhân loại, Người nói, như Người đã sống bởi Chúa Cha thế nào thì họ cũng sống nhờ Người như vậy:
Như Cha đã sai Thầy, và Thầy sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì người ăn thịt Ta cũng sống nhờ Ta như vậy (Ga 6:58).
Ăn ma-na là vấn đề của thể xác, và ăn mình Chúa Kitô là vấn đề thuộc tinh thần! Sống bởi Đức Kitô như thế còn mật thiết hơn là trẻ em được nuôi bằng sữa mẹ. Tất cả những người mẹ khi cho con bú đều có thể nói, “Ăn đi, đây là thân xác của mẹ; đây là máu của mẹ.” Nhưng thực tế là việc so sánh kết thúc ở đó; vì trong tình liên hệ mẹ con, cả hai cũng là loài người. Trong tình liên hệ giữa Đức Kitô và con người, sự khác biệt là giữa Thiên Chúa và loài người, giữa trời và đất. Hơn nữa, không người mẹ nào phải chết để mặc lấy một hiện hữu vinh quang hơn trong nhân tính trước khi có thể nuôi con bằng việc bú mớm. Nhưng Chúa Giêsu nói Người phải hiến sự sống của Người trước khi có thể trở nên Bánh Hằng Sống cho những ai tin vào Người. Các cây cỏ dùng để nuôi sống súc vật không sống ở một hành tinh khác; các con vật dùng để làm của ăn nuôi con người cũng không sống ở một thế giới khác. Nếu Đức Kitô là “Sự Sống của Thế Gian,” thì Người phải ở trong nhà tạm giữa loài người như Em-ma-nu-en hay “Chúa ở cùng chúng ta,” cung cấp một sự sống cho linh hồn như bánh là sự sống của thân xác.
Nhưng tâm trí của những người nghe đã không vượt cao hơn lãnh vực thể xác, như họ đã hỏi:
Làm thế nào ông này có thể cho chúng ta thịt của ông để ăn? (Ga 6:52).
Thật là một điên rồ để một người nào đó lấy thịt mình cho người khác ăn. Nhưng họ cũng chẳng bị để ở trong bóng tối qúa lâu khi Chúa đã giải thích cái sai lầm của họ là Người không phải chỉ ‘thuần túy là người’ như mọi người, nhưng Người, là Đấng làm “Con Người” để trao ban. Danh hiệu đó ám chỉ đến của lễ đền tội Người hiến dâng. Không phải thịt của một Đức Kitô Chết mà những người tin được nuôi dưỡng, nhưng là Đức Kitô Vinh Hiển trên trời, Đấng đã chết, rồi sống lại từ cõi chết, và lên trời. Nguyên việc ăn thịt và uống máu của một người thì chẳng ích gì; nhưng thịt và máu của Đấng là Con Người sẽ mang lại sự sống vĩnh cửu. Khi một người chết đi trong tinh thần vì đã ăn trái cấm trong vườn địa đàng, thì một người cũng sẽ sống lại trong tinh thần qua việc ăn trái của Cây Sự Sống.
Lời Chúa Kitô thật cụ thể rõ ràng theo nghĩa đen, và Người đã làm tan đi những giải thích sai lầm, vì bất cứ ai cho rằng Thánh Thể hay Mình và Máu của Người trao ban chỉ là một biểu tượng, hay hiệu quả của nó tùy thuộc ở xu hướng chủ quan của người đón nhận. Phương cách của Chúa là khi có người hiểu sai về điều Người nói thì Người sửa cái sai của họ, như Người đã làm khi Ni-cô-đê-mô nghĩ “tái sinh” có nghĩa là chui vào trong bụng mẹ một lần nữa. Khi người nào đó hiểu đúng điều Người nói, nhưng lại thấy có gì trái tai, thì Người nhắc lại điều Người nói. Trong bài giảng này, Chúa đã nói lại đến năm lần điều Người đã nói về Mình và Máu của Người. Ý nghĩa đầy đủ của những lời này đã không trở nên sáng nghĩa hoàn toàn cho đến lúc Người chết. Trong di chúc và lời chứng của Người, Người đã để lại cái mà không một người nào khác có thể để lại như vậy, đó là Mình, Máu, Linh Hồn và Thần Tính của Người cho sự sống của thế gian.
.