Ngày đó một em bé được sinh ra ở Kerioh. Cha mẹ của em, nhìn hứa hẹn về tương lai sáng lạng của bé lớn lên thành người trai trẻ, đã đặt tên cho em là “Chúc Tụng.” Các bạn và những người thân đến thăm và tặng quà chúc mừng bé mới chào đời. Không xa nơi đó cho lắm, một hài nhi khác được sinh ra ở Bethlehem. Các mục đồng và Ba Vua mang qùa đến tặng cho Hài Nhi có tên là “Đấng Cứu Thế.” Nhiều năm sau, Hài Nhi ở Bethlehem gặp cậu bé từ Kerioth; Chúa đã gọi Giuđa làm Môn Đệ.
Ông là người duy nhất từ đất Giuđa trong nhóm các Môn Đệ, còn tất cả những người khác đều từ Galilêa. Rất có thể vì những người từ Giuđa có tiếng về tài quản trị nên Giuđa tự nhiên thích hợp với vai trò làm quản lý cho nhóm các môn đệ hơn là những người khác từ Galilêa. Biết dùng khả năng thích hợp tự nhiên của một người là để giữ được họ, nếu người ta có thể giữ, để họ khỏi phản bội hay không hài lòng. Những cám dỗ trong cuộc sống thường lại đến từ những cái mà một người có khả năng nhất. Dĩ nhiên là phải có sự thất bại nội tâm trước khi có thể có thất bại bên ngoài. Thất bại duy nhất nơi Giuđa, theo như hồ sơ ghi lại, là tội của lòng tham. Nơi ông thì đây là cội rễ của tội lỗi, vì từ đó, như từ một ngọn thác nước dơ bẩn, tràn đổ ra tội lỗi, tội qúa lớn đến nỗi:
Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn! (Mt 26:24)
Lược rảo qua cuộc đời của Giuđa căn bản bắt đầu từ lúc phản bội trong đêm Tiệc Ly. Đây không phải là chứng thực, vì ghi nhận tiên khởi về sự phản bội của Giuđa chính là dịp Chúa tuyên bố Người là Bánh Hằng Sống. Khởi sự và kết thúc cho hành động phản bội của Giuđa đều liên quan đến Đức Kitô là Bánh Hằng Sống. Chứng cớ về sự phản bội của Giuđa không phải là khi Chúa lập Lễ Tưởng Niệm về Cái Chết của Người ở Bữa Tiệc Ly, nhưng là khi Người hứa điều đó ngay từ lúc bắt đầu Đời Sống Công Khai của Người. Bước vào trong biến cố Đời Sống của Thiên Chúa như trở nên thức ăn cho con người đã được đưa vào hồ sơ mở màn cho sự phản bội của Giuđa:
Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. (Ga 6:65)
Bàn tay trên hòn súc sắc đã chỉ đến giờ chết của Người; từ giây phút đó trở đi, Chúa đã chịu đựng truớc sự hiện diện của kẻ sẽ nộp Người. Lời công bố về Bánh Hằng Sống chỉ là lúc để khởi sự ra tay hành động cho cái vỡ mộng của Giuđa mà thôi; Chúa nói về một Đất Nước khác với đất nước mà Giuđa mong đợi. Sự thất vọng này của Giuđa đã phải tăng lên rất cao ngày hôm sau, khi Giuđa thấy Chúa từ chối không muốn trở thành vua và Người đã lẩn trốn lên núi một mình.
Ngày thứ Sáu trước án Đóng Đinh đã có một bữa tiệc lớn ở Bethany nơi Martha phục vụ bàn ăn, và Lazarô là một trong những người dự tiệc cùng bàn với Người. Maria, nhận ra tương lai rõ hơn những người khách khác trong bữa tiệc và linh cảm thấy cái chết của Người đến gần, nên đã xức dầu thơm như chuẩn bị cho cuộc mai táng Người. Khi Giuđa thấy dầu được đổ ra như thế, ông đã ngay lập tức định giá cho nó. Đây là tuần lễ định giá, vì chỉ vài ngày nữa thì hắn sẽ định giá cuộc đời của Chúa đáng ba mươi đồng bạc. Và lúc này hắn định giá dầu khoảng hai trăm ngày lương, vì thời đó trung bình lương của một người làm một xu cho mỗi ngày. Như Gioan miêu tả:
Một trong các môn đệ của Đức Giê-su là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói: "Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo? " (Ga 12:4,5)
Như ghen tị thường được nói về người có tính nết nhỏ nhoi đối xử với người tài giỏi, thì những lời phê bình cũng có thể được dành cho người thua cuộc. Giuđa là người qúa tham của nên không còn nghĩ đến sự cao đẹp của hành động. Ông đã không nhận ra rằng có một số thương lượng cực thánh đến nỗi không giá cả nào có thể tráo đổi được. Tình nghĩa chính là sự liên hệ tồn tại giữa việc muốn chiếm đoạt và phản bội đối với Đức Kitô. Phản bội thường là hậu quả của lòng muốn chiếm đoạt. Giuđa biết sự phản bội thầy đang đến gần; Maria biết cái chết của thầy cũng gần kề. Mang chiếc mặt nạ giả nhân giả nghĩa của lòng thương người, Giuđa che đậy sự bực tức vì thấy không nên phung phí dầu thơm quí giá như thế, nhưng Gioan đã cung cấp lý do cho lời tuyên bố của Giuđa:
Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung. (Ga 12:6)
Trong khi Maria, với lòng mến yêu, đã vô tình tỏ bày tôn kính cái chết, thì Giuđa trong tư lợi đã cố ý đưa Người đến cái chết. Thật là một trái nghịch giữa túi tiền của Giuđa và bình dầu thơm qúi giá của Maria; giữa ba mươi đồng bạc và ba trăm đồng bạc; giữa tinh thần tự do chân thật và cách giả dối nghĩ đến người nghèo. Giuđa đã trở nên phát ngôn viên thay cho những người qua nhiều thế kỷ vẫn chống báng việc tân trang làm phong phú việc thờ phượng Kitô giáo và cảm thấy, khi vàng bạc châu báu qúi nhất được dâng cho Thiên Chúa, Đấng đã làm nên chúng, cũng có chút đỉnh giúp cho người nghèo – không phải vì họ yêu qúi người nghèo, nhưng vì họ ghen tị với sự giầu có. Nểu giả như Giuđa có ba trăm đồng tiền bạc ấy, hắn sẽ chẳng đem cho người nghèo.
Chúa sẽ đi vào ngôi mộ của Người. Chắc chắn sẽ không còn cơ hội để xức dầu trên thân thể Người nữa, nhưng sẽ vẫn còn cơ hội để giúp cho người nghèo. Khi Chúa công khai nói thêm về cái chết của Người, đề cập đến việc Maria xức dầu cho Người là một việc hiến tế, Giuđa biết rằng, nếu hắn có nhận ra điều gì vì có liên quan với Đức Kitô, thì đó là việc phải hành động cho mau. Trong tình cảnh biến động khẩn cấp, cần phải cứu gỡ cái gì có thể cứu gỡ.
Bấy giờ, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, đi gặp các thượng tế mà nói: "Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu." Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. Từ lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giê-su. (Mt 26:14-16)
Tám trăm năm trước đó, Zecharia đã tiên báo:
"Nếu các ông cho là phải, thì trả công cho tôi; không thì thôi vậy." Họ tính công cho tôi là ba mươi đồng bạc. (Zecharia 11:12)
Thật là một biểu tuợng việc bán Chúa đã được trả bằng tiền của đền thờ là tiền được dùng để mua các của lễ làm vật hiến tế; càng biểu tượng hơn nữa cho Đấng đã mặc lấy thân phận tôi tớ được bán đi với giá của một người nô lệ.
Sau cùng, vào ngày Lễ Vượt Qua, Chúa của chúng ta, sau khi đã chỉnh bảo các môn đệ về những tham vọng của họ và dạy họ tinh thần khiêm tốn bằng việc rửa chân cho họ, đã công bố sự bội phản. Như màn đầu của thảm kịch, khi Bánh Hằng Sống được hứa ban, đã đánh dấu cho khởi sự phản bội, bây giờ ở phòng Tiệc Ly và việc trao miếng bánh đã ra dấu phần kết.
Chiều đến, Đức Giê-su vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. Đang bữa ăn, Người nói: "Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy." Các môn đệ buồn rầu quá sức, lần lượt hỏi Người: "Thưa Người, chẳng lẽ con sao? " (Mt 26: 20-22)
Sau khi rửa chân cho các môn đệ xong, biết là kẻ phản Người đang ở giữa họ, Người nói:
Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu! " (Ga 13:10)
Được chọn làm Môn Đệ là một chuyện; được tuyển chọn hưởng ơn cứu rỗi lại là một chuyện khác nữa tùy theo việc qui phục sống theo những đòi hỏi của ơn gọi. Nhưng các Môn Đệ của Chúa dĩ nhiên biết rằng sự phản giáo hay chia lìa hoặc là đi theo đoàn của Người không phải là không đòi buộc, Người đã trích Thánh Vịnh 40 để cho thấy đó là lời tiên tri được nên trọn:
Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em! Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con. (Ga 13:18-19)
Ám chỉ ở đây là việc vua David bị săn đuổi dưới tay của Achitophel, sự bất trung bây giờ được tỏ bày như một báo trước về cái mà Con Vua Đavid phải chịu. Phần thấp nhất của thân thể, là gót chân, trong cả hai trường hợp đều được miêu tả như bị mang thương tích. Trong sách Sáng Thế Ký, nó là gót của Miêu Duệ người phụ nữ được tiên báo như sẽ đạp dập đầu con rắn hay qủi satan. Bây giờ dường như qủi có cơ hội trả đũa, bằng cách dùng gót chân để gây thương tích cho miêu duệ của người phụ nữ – là Chúa Giêsu. Ở chỗ khác Chúa nói:
Kẻ thù của mình chính là người trong nhà. (Mt 10:36)
Chỉ có người đã từng bị phản bội từ trong nhà như thế mới có thể chia sẻ được phần nào nỗi đau buồn trong linh hồn của Đấng Cứu Thế đêm hôm đó. Tất cả các gương lành, lời khuyên, sự đồng hành, và khích lệ đều vô nghĩa đối với những người muốn làm điều gian ác hay “bán đứng” người khác cho bị hành hạ đến tiêu diệt. Một trong những cách bày tỏ mạnh mẽ nhất nói về những nỗi sầu khổ của Chúa lúc này được dùng để nói về tình yêu của Người dành cho Giuđa và sự cố tình hư hỏng của y:
Đức Giê-su cảm thấy tâm thần xao xuyến. Người tuyên bố: "Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy." (Ga 13:21)
Việc có “một người trong anh em” một người cũng được Chúa rửa chân, một người Người cũng đã gọi làm tông đồ để mở mang Giáo Hội của Người trên thế giới sau khi Thần Khí của Người ngự đến, một người với sự có mặt của người đó đã khiến Người đau buồn trong nhẫn nại mà không một môn đệ nào khác biết.
Các môn đệ nhìn nhau phân vân; không biết Người nói về ai (Ga 13:22)
Giuđa phải là người rất tinh ranh để che dấu tính đồi bại và lòng tham của y trước mặt mười một người kia. Chúa thì trái lại, chắc chắn đã đối xử bằng tình yêu thương tử tế với Giuđa giống như đối với những người khác, để giữ bí mật cho tội của ông. Không gì làm khuấy động sự bình an của linh hồn họ hơn là biết một người trong nhóm của họ sẽ phản Hoàng Tử của Hoà Bình.
Các môn đệ buồn rầu quá sức, lần lượt hỏi Người: "Thưa Người, chẳng lẽ con sao?" (Mt 26:22)
Có lẽ người Môn Đệ duy nhất không hỏi “Có phải con không?” là Gioan, vì lúc đó ông đang dựa đầu vào ngực của Chúa. Gioan luôn hãnh diện về điều đó và đã luôn xưng nhận chính ông là người “được Chúa yêu.” Phêrô tuy nhiên, cũng có thể, chia sẻ việc không nghĩ ông sẽ là người phản bội, vì ông đã ra hiệu cho Gioan hỏi Chúa, “Người đó là ai?” Khi Chúa được hỏi, Người trả lời,
"Thầy chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy." Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt. (Ga 13:26-27)
Trong suốt phần đầu của bữa tiệc Lễ Vượt Qua, cả Chúa và Giuđa đã chấm bánh chung cùng một điã với rượu và trái cây. Việc Chúa chọn bánh như dấu chỉ cho sự bội phản có thể đã nhắc cho Giuđa về bánh đã hứa ở Capharnaum. Nói theo lẽ người thường, thì đáng lẽ ra Chúa phải lớn tiếng quở trách Giuđa, nhưng Người lại chọn một nỗ lực cuối cùng để cứu y bằng việc dùng bánh trong bữa ăn họp mặt.
Người đáp: "Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!" (Ga 26:24-25)
Trước nhan Chúa, không ai có thể biết chắc họ vô tội, và ai cũng thắc mắc, “Có phải là con không?” Mỗi người là một bí nhiệm đối với chính họ, vì họ biết trong lòng họ là nơi rắn độc nằm cuốn mình, rình rập chờ đợi bất cứ lúc nào để mổ người khác hay mổ cả Thiên Chúa, với nọc độc của chúng. Một người trong nhóm có thể biết chính hắn là kẻ phản bội, thế mà không một ai khác biết hắn. Trong trường hợp của Giuđa, dù Chúa đã tỏ cho hắn biết về sự phản bội của hắn, hắn vẫn cứ cứng lòng quyết tâm làm điều gian ác. Đứng trước sự phơi bày về tội phạm và ý đồ xấu xa của hắn bị vạch trần, thế mà hắn vẫn không hổ thẹn nhưng cứ tiếp tục làm cái việc xấu xa bỉ ổi ấy cho đến cùng. Một số người bỏ không phạm tội xấu xa nữa, khi các tội ấy bị phơi bày ra trước mắt. Họ có thể sợ rụt lại không dám “gieo những bông lúa hoang dại” nữa khi việc làm như thế bị coi là dâm ô và vô luân. Nhưng ở đây Giuđa nhìn thấy mưu đồ bẩn thỉu của hắn bị phơi bày ra, và theo cách nói của Nietzsche, “Với ta, Gian ác là cái tốt.” Chúa đã cho Giuđa một dấu chỉ. Để trả lời cho câu hỏi của các môn đệ, “Có phải con không?” Người trả lời:
"Thưa Thầy, ai vậy?" Đức Giê-su trả lời: "Thầy chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy." Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt. (Ga 13:26-27)
Giuđa hoàn toàn tự do để làm điều xấu như được chứng minh từ cái hối tiếc mà hắn tỏ ra sau đó. Cũng vậy, Chúa Kitô cũng có tự do để làm cho sự phản bội Người trở thành điều kiện cho Thập Giá của Người. Nhưng con người xấu xa dường như chạy ngược chiều với nguồn kinh tế của Thiên Chúa và là nút thắt rối của tấm thảm cuộc đời, nhưng một cách nào đó, tất cả đều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Gío cuồn cuồn thổi từ bầu trời đen tối, và đâu đó cánh buồm hứng gió và đón lấy nó để sinh lợi ích cho con người.
Khi Chúa nói:
Thầy chấm bánh cho ai thì chính là kẻ ấy.
Người thực sự đã dùng một nghĩa cử thân thiện của tình thân hữu. Trao miếng bánh dường như là một việc làm theo tục lệ của Hy lạp cũng như của Đông phương. Socrates nói rằng, trong mọi hoàn cảnh, trao miếng bánh cho người khác là dấu qúi mến. Chúa trao cho Giuđa một cơ hội để hoán cải, như Người cũng đã làm sau này trong Vườn Giet-si-ma-ni. Nhưng cho dù Chúa mở cửa cho ông, Giuđa vẫn không bước vào.
Y vừa ăn xong miếng bánh, Xa-tan liền nhập vào y. Đức Giê-su bảo y: "Anh làm gì thì làm mau đi!" (Ga 13:27)
Satan chỉ có thể nhập vào những ai đồng ý với hắn. Dấu tình thương và thân thiện tỏ ra từ Đấng là Nạn Nhân đáng lẽ đã làm chạnh lòng Giuđa để ông thống hối. Miếng bánh có lẽ đã làm bỏng môi của hắn, giống như ba mươi đồng tiền bạc sau này đã làm bỏng tay của y. Chỉ vài giờ trước đó, tay của Con Thiên Chúa đã rửa chân cho Giuđa; bây giờ cũng đôi tay Thánh đó đụng vào môi miệng của Giuđa với miếng bánh; trong một vài giờ nữa, đôi môi của Giuđa sẽ hôn môi của Chúa như hành động phản bội cuối cùng. Đấng Trung Gian là Thiên Chúa, biết tất cả những điều phản nghịch, đã bảo Giuđa mở màn rộng hơn cho thảm cảnh của đồi Can-vê. Điều mà Giuđa sẽ làm, thì hãy để hắn làm mau đi. Chiên Thiên Chúa đã sẵng sàng để hiến tế.
Tình thương của Thiên Chúa không nói đích danh kẻ phản bội, vì Chúa đã giữ kín không cho các Môn đệ biết kẻ phải bội Người chính là Giuđa. Thế gian thích nói ra những điều xấu – ngay cả những cái không đúng sự thật – thì ở đây lại ngược lại, ngay cả cái có xấu thật cũng đã không nói ra. Khi những người khác thấy Giuđa đi ra ngoài, họ nghĩ là vì y có nhiệm vụ đi làm phúc:
Nhưng trong số các người đang dùng bữa, không ai hiểu tại sao Người nói với y như thế. Vì Giu-đa giữ túi tiền, nên có vài người tưởng rằng Đức Giê-su nói với y: "Hãy mua những món cần dùng trong dịp lễ", hoặc bảo y bố thí cho người nghèo. (Ga 13:28-29)
Nhưng thay vì đi mua, thì Giuđa đã đi bán; cũng không phải là hắn đi để giúp người nghèo, nhưng là đến với những người giầu canh giữ kho của đền thờ. Cho dù Chúa biết ý định xấu xa của Giuđa, Người vẫn đối xử tử tế với y vì Người muốn chỉ mình Người biết cái đê tiện xấu xa ấy. Rất nhiều trường hợp, Người đã hành xử như là Người không biết đến những ảnh hưởng do hành động của người khác. Người biết là Người sẽ làm cho Lazarô sống lại, thế mà Người vẫn khóc. Người biết ai không tin vào Người và ai sẽ phản bội Người, thế mà điều đó vẫn không làm Thánh Tâm của Người se cứng lại. Giuđa từ chối lời mời cuối cùng, và từ lúc đó trở đi chỉ còn lại sự tuyệt vọng trong lòng của hắn.
Giuđa đi ra, “và lúc đó là ban đêm” – một diễn tả xứng hợp cho việc làm trong bóng tối. Có lẽ cũng là diều dễ hơn để ở xa Đấng là ánh sáng cho thế gian. Thiên nhiên đôi khi cảm thông và đôi khi cũng không đồng tình với niềm vui và nỗi buồn của chúng ta. Bầu trời âm u với nhiều áng mây bao phủ khi chúng ta có nỗi buồn trong lòng. Thiên nhiên đồng tình với những việc làm gian ác của Giuđa, vì khi đi ra ngoài, hắn đã không thấy vầng thái dương của Thiên Chúa mỉm cười nhưng bóng tối ảm đạm của đêm khuya. Nó cũng là đêm tối giữa ban ngày khi Chúa bị đóng đinh.
Khi Giu-đa đi rồi, Đức Giê-su nói: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. (Ga 13:31)
Cái chết của Người không phải là một việc tử đạo, một ô nhục, hay là hậu quả của phản bội. Khi Chúa Cha nói về Con Của Người lúc chịu phép Rửa ở sông Jordan, Chúa đã không nói là chính Người được tôn vinh; Người cũng không nói thế lúc Biến Hình Trên Núi khi các tầng trời mở ra, nhưng vào Giờ này – khi Linh Hồn của Người sầu khổ, Thân Thể Người bị đánh đập, trí khôn Người như một trò hề, ý muốn của Người như nghịch với tốt lành – Người đã tạ ơn Chúa Cha. Chúa Cha được tôn vinh bởi cái chết cứu chuộc của Người, và Người sẽ được tôn vinh bởi Chúa Cha trong sự Sống Lại và Lên Trời của Người.