Dẫn đầu đoàn người đi theo thánh giá thường có người thổi kèn để dẹp lối đi trên đường; theo sau là một người công bố tên của phạm nhân, người được dẫn đến pháp trường để chịu hành quyết. Đôi khi tên của phạm nhân và lý do cho án phạt được viết trên tấm bảng và đeo trên cổ của phạm nhân. Hai nhân chứng của tòa cũng đi theo đoàn rước tử tội. Một viên trưởng đội cưỡi ngựa, cùng với nhiều quân lính đi theo đoàn người. Có thêm hai người trộm cướp cùng bị đem đi đóng đinh chết với Chúa. Người một mình vác thánh giá đè nặng trên vai và trên lưng với đầy vết thương bởi bị đánh đòn.
Ngay Chúa Nhật trước đó Người đã được tung hô là “Vua”; thế mà sáng hôm nay dân chúng lại la hò: “Chẳng Vua nào ngoài Caesar.” Thành Giêrusalem đã chào đón Người trước đó, bây giờ chính Giêrusalem ấy lại chối bỏ Người. Vì các thượng tế của đền thờ đã kết tội cho Người, họ đuổi Người ra khỏi Giêrusalem. Đây là luật của Leviticus, nghĩa là của lễ đền tội phải bị xua đuổi ra khỏi cửa thành hay khỏi lều trại.
Con bò tơ dùng làm lễ tạ tội và con dê dùng làm lễ tạ tội, mà máu đã được đưa vào thánh điện để cử hành lễ xá tội, người ta sẽ đem ra bên ngoài trại, bỏ vào lửa mà thiêu, cả da, cả thịt, cả phân. (Lv 16:27)
Đức Kitô, của lễ đền tội cao trọng nhất, bị xua đuổi như con vật đền tội bị xua đuổi ra ngoài thành. Thánh Phaolô cho rằng từ lúc đó thành bị mất vị thế là thành thánh và được thay thế bởi Giêrusalem trên trời.
Vì thế, Đức Giê-su đã chịu khổ hình ngoài cửa thành, lấy máu mình mà thánh hoá toàn dân. Vậy ta hãy ra khỏi trại mà đến với Người, cam lòng gánh vác nỗi khổ nhục Người đã chịu. Vì trên đời này, chúng ta không có thành trì bền vững, nhưng đang tìm kiếm thành trì tương lai. (DT 13:12-14)
I-sa-i-a đã tiên báo rằng “Việc cai quản của Người sẽ ở trên vai Người”; bây giờ là điều đã trở nên rõ ràng Thập Giá là cách cai quản hay là pháp luật của đời sống. Người đã nói bất cứ ai muốn làm môn đệ của Người đều phải vác Thập Giá của họ để đi theo Người.
Sợ rằng bị đánh đòn lâu, mất nhiều máu, mạo gai nhọn có thể làm cho Người bị chết trước khi chịu đóng đinh, những kẻ thù ghét Người buộc phải bắt một người xa lạ là ông Simeon người từ Cyrene, giúp Người vác Thập Giá. Cyrene là một thành phố phía bắc của bờ biển Châu Phi. Nhưng không rõ ông thuộc quốc gia nào. Rất có thể ông cũng là một người Do Thái, xét theo tên của ông, hoặc là một người ngoại; cũng có thể ông là một người Phi Châu da đen, xét theo địa dư nơi ông sinh sống và do sự thật là ông bị bắt ép để vác đỡ thánh giá cho Chúa. Đó là lần đầu tiên Đấng Cứu Thế đặt Thập Giá trên vai một người khác; Simeon được ân huệ là người thứ nhất chia sẻ Thập Giá của Đức Kitô.
Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê. Ông là thân phụ hai ông A-lê-xan-đê và Ru-phô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giê-su. (Mc 15:21)
Simeon không tự nguyện làm việc này, vì từ ngữ Hy Lạp được dùng trong Tin Mừng đã được lấy từ một từ ngữ của tiếng Persian có nghĩa cưỡng chế những con vật trong việc chở bưu kiện trong lãnh thổ của đế quốc Persian. Simeon có thể đã là một trong số những người bàng quan tò mò đứng nhìn một người bị đem đi hành quyết, ông đang đứng bên đường thì cánh tay của người lính Roma đã kéo ông bắt ông vác Thập Giá to nặng nhọc này. Cho dù thoạt đầu bị ép buộc cách bất đắc dĩ, nhưng rồi ông đã cảm nghiệm, như lời Chúa đã nói với những người đi theo Người, “gánh êm ái và nhẹ nhàng.” Nếu không thế thì tên của hai người con của ông đã không được Phaolô nhắc đến như hai cột trụ của Giáo Hội sau này.
Khi còn công khai rao giảng, Chúa của chúng ta đã dạy biết xử nhân ái với những người làm hại chúng ta:
Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. (Mt 5:41)
Có thể là Simeon đã không hề nghe biết về những lời này; nhưng những lời đó không thực sự cần thiết khi chính ông đang đi theo Ngôi Lời.
Cùng đi theo đoàn người trên đường, cũng có những người phụ nữ. Có nhiều trường hợp các ông đã không làm được trong cuộc hành trình đến Thập Giá, ví dụ như Các Tông Đồ đã ngủ mê trong vườn, Giuđa đã phản bội, người Do Thái và quan tòa của người Ngoại đã kết án, nhưng chẳng thấy chỗ nào nói về một người phụ nữ lên tiếng yêu cầu đòi Người phải chết. Một người phụ nữ dân ngoại đã can thiệp với Philatô đừng giết Người. Dưới chân Thập Giá có bốn người phụ nữ và chỉ có một người môn đệ. Tuần cuối cùng trong đời của Người các con trẻ reo hò “Vạn Tuế,” thì những người nam giới lại la to “Đóng Đinh nó,” nhưng những người phụ nữ lại “khóc.” Người đã quay sang nói với những người phụ nữ:
Hỡi chị em thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu. Vì này đây sẽ tới những ngày người ta phải nói: "Phúc thay đàn bà hiếm hoi, người không sinh không đẻ, kẻ không cho bú mớm! Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: Đổ xuống chúng tôi đi! , và với gò nổng: Phủ lấp chúng tôi đi! Vì cây xanh tươi mà người ta còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?" (Lc 23:28-31)
Ở đây, Chúa của chúng ta muốn nói đến những điều mà Người đã nói trước kia liên quan đến sụp đổ của thành Giêrusalem:
Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm." (Lc 19:43-44)
Như khi ở trong vườn Người đã nói với những người lính để cho các môn đệ của Người tự do đi, thì Người cũng nói với những người phụ nữ đừng than khóc cho Người, vì Người vô tội, nhưng hãy khóc thương cho sự sụp đổ của thành Giêrusalem, là biểu tượng cho sự sụp đổ của thế giới vào lúc cuối thời. Thực ra, khi sự sụp đổ của thành Giêrusalem xẩy ra, Josephus đã ghi lại rằng dân thành Giêrusalem đã chạy đi ẩn trốn trong các hang hẻm hốc đá trong núi.
Đây là lần đầu tiên kể từ lúc tra khảo trước mặt Philatô Chúa mới lên tiếng. Đây là bài giảng thương khó của Chúa, hay đúng hơn là phần đầu của bài giảng; phần thứ hai bao gồm Bảy Lời Cuối Cùng của Người từ trên Thập Giá.
Giả như có lúc nào mà Chúa có thể đã quan tâm nghĩ đến những thống khổ của Người và nhìn nhận nước mắt khóc thương của người khác như niềm an ủi cho Người, thì chính là lúc đi lên đồi Can-vê, và tuy thế, Người lại yêu cầu những người phụ nữ đừng khóc thương cho Người. Đấng đã khóc ở Bethany và Máu của Người đang khóc rơi trên đường Giêrusalem, lại bảo họ đừng khóc thương cho Người, vì cái chết của Người là một nhu cầu tự nguyện cần thiết – Người hoàn toàn tự nguyện, nhưng cần thiết cho nhân loại. Hơn nữa, vì Người đã hứa lau khô tất cả nước mắt, thì nước mắt khóc thương Người là điều không cần thiết.
Cây xanh là chính Người; cây khô là thế giới. Người là cây xanh sự sống được bứng từ Vườn Địa Đàng để đem đi trồng; cây khô trước tiên là Giêrusalem, sau đó là thế giới chưa tin. Lời cảnh báo của Người ám chỉ là nếu những người Roma đã xử với Người như thế, Đấng Vô Tội phải chết, thì họ sẽ xử thế nào với Giêrusalem? Nếu Người đã bị đánh đập tàn bạo vì tội lỗi của những người khác như thế, thì ngày phán xét cuối cùng những người có tội phải bị trừng phạt thế nào vì tội lỗi của họ? Khi rừng bị cháy, những cây xanh có nhựa và ẩm ướt bị ám khói đen, nhưng những cây khô cằn cỗi đã bị thối mục sẽ bị thiêu rụi đến thế nào! Nếu Người, Đấng vô tội đã phải chịu đau khổ, thì những người thối nát sẽ đau khổ thế nào vì tội của họ!
Phêrô, người đã không được nhắc đến trong bối cảnh này nhưng đã sống rất gần gũi với Đấng Cứu Thế, sau này đã viết về cùng chủ đề:
Nếu người công chính còn khó được cứu độ, thì người vô đạo, kẻ tội lỗi sẽ ở đâu? Vì vậy, những ai chịu khổ theo ý của Thiên Chúa, hãy phó mạng sống mình cho Đấng Tạo Hoá trung thành, và cứ làm điều thiện. (1Phero 4:18-19)
Chẳng có giọt nước mắt nào của Dalila có thể giữ cho Samson này bỏ công việc của ông hôm nay; và sẽ chẳng có sự than khóc bề ngoài nào của các phụ nữ Giêrusalem làm yếu đi mục đích quyết tâm hiến tế của người; nước mắt hồi môn của họ sẽ không thể biến họ nên những cô dâu cho trái tim của Người. Nếu Người chỉ là một người tốt lành bị đem đi hành quyết, thì cứ để cho họ thương khóc; nhưng vì Người là vị Linh Mục đi để hiến tế, vậy thì hãy để cho họ khóc nếu họ không chịu nhận lấy hoa trái từ hiến tế ấy. Như Người sẽ khai trừ sự chết của cái chết bằng việc chỗi dạy ra khỏi mồ, thì bây giờ Người loại trừ nước mắt của sự khóc than, để nói cho biết rằng chỉ có tội lỗi mới đáng phải than khóc. Họ đang khóc thương cho Người như một con người tốt lành, nhưng không nên có nước mắt như thế bên giường chết của Người. Bởi chối từ sự đau buồn của họ, Người đã tỏ cho thấy rằng Người không phải chỉ là một người tốt lành đến để chịu chết, nhưng Người là Thiên Chúa làm Người để cứu chuộc các tội nhân.
Ẩn giấu đàng sau những lời của Người là lời kêu gọi trung tín để đảo ngược số phận sụp đổ của Giêrusalem; vận mệnh của nó nằm trong tay những người phụ nữ, họ đã làm được nếu sám hối. Trường hợp này cũng như nhiều trường hợp khác, Người bảo những người nghe Người hãy nhìn vào tình trạng của chính tâm hồn họ. Người xoay chú ý của họ thay vì hướng về Người, Đấng vô tội, thì hướng về những người cần Ơn Cứu Chuộc. Khi một người thanh niên đến xin được làm môn đệ của Người, Chúa của chúng ta đã bảo anh Người chẳng có nơi để tựa đầu. Tình trạng tâm hồn của người thanh niên đó có xứng hợp với sự nghèo khó như thế không? Khi Phêrô nói ông sẵn sàng chết cho Người, Chúa đã bảo cho ông biết tâm hồn của ông yếu đuối như thế nào; thì bây giờ những người phụ nữ được nói cho biết là nỗi sầu khổ của họ đặt không đúng chỗ; họ hãy nhìn vào tâm hồn của họ, vào con cái của họ, vào thành đô của họ. Người không cần nước mắt; họ mới cần.
Nơi để đóng đinh là núi Golgotha, hay còn được gọi là “Núi Sọ.” Tục truyền nói rằng đó là nơi đã chôn xác Adam. Những lần tái diễn việc Đóng Đinh người ta thường lấy một cái xương sọ đầu để dưới chân Thập Giá với ám chỉ rằng Adam mới đã chết cho Adam cũ. Nhưng chắc chắn rằng đó là nơi xương người chết được sa thải sau khi đã bị hành quyết. Khi đến đỉnh đồi, những người thi hành án tử lột bỏ áo của Người ra, gây ra thêm những vết thương mới trên thân xác thánh thiện của Người. Tóm lại, có tất cả bảy lần đổ máu khác nhau; lúc Cắt Bì, lúc đau buồn trong Vườn, khi bị Đánh Đòn, Vòng Gai Nhọn, trên đường vác Thập Giá, và bây giờ là hai lần nữa tiếp theo: Đóng Đinh và Lưỡi Đòn Đâm vào Trái Tim.
Thập Giá đã được chuẩn bị và trên đỉnh được đặt bảng ghi do lệnh của Philatô bằng tiếng Do Thái, Latin và Hy Lạp:
Giêsu Nazareth Vua dân Do Thái (Ga 19:19)
Cái chết và vương quyền của Người được công bố nhân danh ba thành đô của thế giới: Giêrusalem, Roma và Athens; bằng ngôn ngữ của sự Tốt Lành, Sự Thật và sự Thiện Mỹ; trong tiếng ca của Sion, Forum và Acropolis. Philatô được yêu cầu thay đổi những lời được viết ấy, nhưng ông đã không chấp thuận: “Ta đã viết sao cứ để vậy.” Vương quyền của Người tiếp tục được công bố, mặc dù, tạm thời lúc này, một Cây Thập Giá là ngai của Người; Máu Người, mầu đỏ tía của vương bào; những cái đinh là vương trượng của Người; vòng gai là triều thiên. Sự Thật được phơi ra khi con người chế diễu.
Bị lột áo có nghĩa là Người không còn bị giới hạn bởi áo che. Trong trần truồng Người trở nên Con Người của Muôn Người. Bị đầy ra ngoài thành, Người từ bỏ tổ quốc cũng như cuộc đời. Thánh Tâm không bị giới hạn bởi biên giới nào cả. Đinh to sù sì được đóng vào cánh tay từ đó tuôn ra ơn thánh cho thế giới, phát giáng thứ nhất của cái búa được nghe trong thinh lặng. Rồi từ tiếng búa giáng này tới tiếng búa giáng khác tiếp theo được vang vọng lại từ những bức tường thành ở phía dưới. Maria và Gioan che tai lại; mỗi tiếng búa giáng vang lại nghe như xé lòng. Chân cũng bị đóng ghìm lại, đôi chân đi tìm chiên lạc trong bụi gai. Mọi lời tiên tri được nên trọn. Ngàn năm về trước, Đavid đã hướng nhìn thấy vai trò của cái búa và những cái đinh đóng vai chào đón Đấng Thiên Sai, như những thợ mộc đóng đinh xử tử Người, Đấng đóng dựng nên trời đất.
Quanh con cả đàn bò bao kín,
thú Ba-san ùa đến bủa vây:
Há mồm đe doạ gớm thay,
khác nào sư tử xé thây vang gầm.
Tưởng mình như tan dần ra nước,
toàn thân con xương cốt rã rời,
con tim đau đớn bồi hồi,
mềm như sáp chảy tơi bời ruột gan.
Nghe cổ họng khô ran như ngói,
lưỡi với hàm dính lại cùng nhau,
chốn tử vong Chúa đặt vào;
quanh con bầy chó đã bao chặt rồi.
Bọn ác đó trong ngoài vây bủa,
chúng đâm con thủng cả chân tay,
xương con đếm được vắn dài;
chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem.
Áo mặc ngoài chúng đem chia chác,
còn áo trong cũng bắt thăm luôn (TV (21) 22:13-19)
I-sa-i-a đã tiên báo về cái chết của Người, Đấng Thiên Sai được xếp đồng hạng với phường gian ác tội phạm. Là nạn nhân thay cho những người có tội, Người được coi không hơn gì sâu bọ đất. Như I-sa-i-a đã nói:
Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca;
như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông,
người chẳng hề mở miệng.
Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu.
Dòng dõi của người, ai nào nghĩ tới?
Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh,
vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt.
Người đã bị chôn cất giữa bọn ác ôn,
bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo
và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa.
ĐỨC CHÚA đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ.
Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội,
người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn,
và nhờ người, ý muốn của ĐỨC CHÚA sẽ thành tựu.
Nhờ nỗi thống khổ của mình,
người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện.
Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta,
sẽ làm cho muôn người nên công chính
và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ.
Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản,
và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt,
nó sẽ được chia chiến lợi phẩm,
bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân;
nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người
và can thiệp cho những kẻ tội lỗi. (Is 53:7-12)
Bị đóng đinh thập giá là khổ hình đau đớn nhất trong mọi khổ hình, người ta có thói quen cho nạn nhân uống một loại nước làm tê cảm giác đau. Có lẽ những người phụ nữ Giêrusalem đã mang theo một ít nước đó với họ. Đúng hay sai, những người lính:
Chúng trao rượu pha mộc dược cho Người, nhưng Người không uống (Mc 15:23)
Chúa của chúng ta, khi họ đưa lên đến miệng của Người, biết là chất làm cho tê cái đau, đã từ chối không nếm. Dù thân xác của Người, qúa cạn kiệt, đã kêu xin nước, Người lại không chịu uống cái sẽ làm giảm giá trị vai trò trung gian của Người. Lúc chào đời, Mẹ của Người đã được dâng tặng mộc dược và đã nhận như một dấu chỉ về cái chết cứu chuộc của Người. Lúc Người chết, Người không nhận mộc dược làm chết cái lý do Người đến. Người đã nói với Phêrô trong đêm hôm trước là Người sẽ uống chén mà Cha của Người trao cho. Nhưng để uống chén Cứu Chuộc thì Người không được uống cái chén sẽ chia cắt giữa Thân Thể và Tinh Thần của Người.
Chúa của chúng ta đã dùng bục giảng trong đời hoạt động công khai của Người, thí dụ như nơi khoang thuyền của Phêrô đẩy ra biển, trên ngọn núi, các đường phố ở Tyre và Sidon, nơi đền thờ, nơi con đường thôn quê gần nghĩa trang, và trong phòng tiệc. Nhưng tất cả đều phai mờ đi so với bục giảng mà Người đang ở trên đó lúc này – bục của Thập Giá. Nó được từ từ nâng lên cao khỏi mặt đất, lung lay giữa trời, xâu xé gây đau đớn cho Thân Xác Thánh Thiện của Người; bỗng bất thình lình một tiếng kêu “hụych” như lay động cả hỏa ngục, nó rơi lọt vào cái lỗ sâu đã được đào sẵn chuẩn bị ở đó. Chúa của chúng ta đang treo trên chiếc bục giảng lần sau cùng.
Như tất cả những người thuyết giảng, Người nhìn vào thính giả. Từ xa, ở Giêrusalem, Người có thể nhìn thấy chiếc mái nhà mạ vàng của đền thờ, phản chiếu tia sáng mặt trời trong chốc lát che dấu dung mạo của nó trong ô nhục. Đây đó nơi các bức tường của đền thờ Người có thể nhìn thấy những người đang cố giương mắt nhìn Người, là Đấng bóng tối không nhận biết. Ở phía cuối của đám đông là những người nhút nhát đi theo, sẵn sàng tẩu thoát nếu có nguy cơ; nơi đó cũng có những người thi hành án đang rút thăm xem ai được chiếc áo choàng của Người. Gần Thập Giá duy chỉ có một Môn Đệ hiện diện là Gioan, khuôn mặt của ông như tái mét hết tình yêu; Madalêna cũng ở đó, giống như bông hoa tàn úa, một vật bị tổn thương. Nhưng người Chúa thương hơn hết là Mẹ của Người. Maria, Madalena, Gioan; một người vô tội, một hối nhân, và một cho chức linh mục; cả ba loại tâm hồn mãi mãi được tìm thấy dưới chân Thập Giá của Đức Kitô.