Chúa của chúng ta không bao giờ làm phép lạ cho chính mình, nhưng là để chứng minh cho uy quyền nơi Ngôi Vị của Người. Đó là những dấu cho thấy rằng Người có sứ vụ đặc biệt giúp nhận ra công việc của Thiên Chúa giữa nhân loại. Ngay trong Cựu Ước cũng đòi hỏi có những phép lạ để chứng minh bảo đảm cho lời của tiên tri. Một dấu không có lòng tin nơi Achaz là ông không xin Chúa cho một dấu chỉ để xác nhận lời của tiên tri. Nhưng vị tiên tri vẫn cứ ban cho ông một dấu chỉ về Đấng Thiên Sai, đó là một Trinh Nữ sinh con.
Những phép lạ của Chúa đã được thực hiện trong lãnh vực cứu chuộc. Chúng không phải chỉ đơn thuần là biểu dương quyền lực nhưng là bản lược kê về sự giải cứu con người khỏi tội lỗi. Bởi thế trong trật tự luân lý thì có những phép lạ của sự giải cứu khỏi kìm kẹp của ma qủi; trong trật tự thể lý, giải cứu khỏi những dấu bày tỏ khác với tội, thí dụ như cảm sốt, tê bại, phong cùi, mù lòa, chết chóc; giải cứu khỏi hiện tượng thiên nhiên trong việc làm cho sóng biển lặng yên và làm cho giông bão phải phục tùng.
Không nói đến tóm lược tất cả các phép lạ, vì có qúa nhiều, hai mươi phép lạ trong tin mừng Mathêu, hai mươi phép lạ trong tin mừng Luca, mười tám phép lạ trong tin mừng Macô và bẩy phép lạ trong tin mừng Gioan. Không ai có thể xác định được con số bao nhiêu phép lạ Chúa Cứu Thế đã làm, vì nhiều phép lạ chỉ được nhắc đến cách chung, thí dụ như, “Người chữa những người yếu đau bệnh tật, người mù, người què.” Những lời cuối trong tin mừng Gioan là:
“Còn có nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.” (Ga 21:25).
Người làm phép lạ để gợi đức tin về lời tuyên bố Người là Đấng Thiên Sai và là Con Thiên Chúa.
“Đó là những việc của Chúa Cha đã giao phó cho tôi để hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi.” (Ga 5:36).
Việc người ta từ chối nhìn nhận những chứng cớ mắt thấy tai nghe mà vẫn không chịu tin khiến cho họ không thể chối bỏ trách nhiệm.
Giả như Thầy không đến và không nói với họ, họ đã chẳng có tội. Nhưng bây giờ, họ không chữa tội được. Ai ghét Thầy, thì cũng ghét Cha Thầy (Ga 15:22).
Các phép lạ cũng không có sức chữa trị chứng bệnh không tin. Một số người vẫn không tin cho dù hàng ngày có người sống lại từ cõi chết. Chẳng có dấu chứng nào có thể đem lại sự tin tưởng hoàn toàn, vì ý chí vẫn có thể từ chối không nhìn nhận điều trí khôn cho là thật. Những người Pharisiêu nhìn nhận:
Người này làm rất nhiều phép lạ (Ga 11:48).
Nhưng cho dù có nhiều phép lạ như thế, Đấng làm phép lạ vẫn bị họ phủ nhận. Đến gần cuối đời của Người, cuộc thăm dò được kết thúc.
Người đã làm ngần ấy dấu lạ trước mặt họ, thế mà họ vẫn không tin vào Người (Ga 12:37).
Sự ngờ vực đã được tiên đoán hàng nhiều thế kỷ trước bởi tiên tri E-li-a. Triên tri E-li-a được giới thiệu trong tin mừng ở điểm này, như một bằng chứng Chúa Giêsu là đức Kitô. Lời E-li-a được nhắc đến sáu lần trong Tân Ước và luôn liên quan đến việc nguời ta nghi ngờ không tin. Không phải là người ta không tin hầu để cho lời của vị tiên tri được nên ứng nghiệm, nhưng là sự không tin của họ đã làm cho lời tiên tri nên ứng nghiệm. Câu hỏi mà Gioan lấy từ I-sai-a là:
Lạy Đức Chúa, ai đã tin lời chúng tôi rao giảng? Và quyền lực của Đức Chúa đã được tỏ cho ai? (Ga 12:38).
Đây là câu đầu tiên trong chương 55 của I-sai-a, trong đó có những lời tiên báo liên quan đến những đau khổ của Chúa. Việc Thiên Chúa thấy trước những gì sẽ xẩy ra không có nghĩa là làm cho các tội nhân không còn trách nhiệm cho tội lỗi của họ; dầu tội lỗi xẩy ra và sự không tin tưởng được tỏ bày, những nguyên cớ có thể được phân tích. Những người từ chối không nhìn thì sẽ mất khả năng nhìn. Thiên Chúa phê chuẩn thái độ hành xử của con người tùy theo sự chọn lựa của họ. Báo trước về việc phán xét dành cho người không tin, Người nói:
Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan tòa xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì (Ga 12:48-49).
Sẽ chẳng có gì là độc đoán trong việc xét xử mà Người áp dụng đối với loài người trong Ngày Sau Hết; những lời vẻ vang của tình thương xót sẽ được dùng cùng với quyền xét xử theo pháp luật. Việc báo trước này về cách mọi người sẽ được xét xử tùy theo thái độ của họ đối với Người là vì Người đã được Thiên Chúa sai đến. Nhân tính của Người khởi sự trong thời gian, thuộc hàng và cấp bậc thấp kém hơn Thiên Tính mà Người chia sẻ với Chúa Cha; bởi thế từ chối Người trong nhân tính của Người cũng là từ chối Chúa Cha Đấng đã sai phái Người. Nhưng ở lúc này, Người đến không phải để xét xử nhưng mà là để cứu nhân loại.
Nhưng cho dù họ không tin Người, như I-sai-a đã tiên báo, Người vẫn còn một mũi tên trong ống đựng, nó sẽ thuyết phục con người nhìn nhận Người là Đấng Cứu Thế.
Và Ta sẽ kéo mọi người lên cùng ta, khi Ta bị treo trên khỏi mặt đất (Ga 12:32).
Cây Thập Giá có sức thu hút con người không phải chỉ đối với những người nghe Người, bởi vì Nước của Người là cho toàn thế giới. Cái chết của Người làm hoàn tất cái mà cuộc sống của Người đã không thể làm hết, vì nơi đó hàm chứa nhiều hơn là sự anh hùng hay dấn thân của một con người. Cái thu hút không phải là hàng phục đối với sự chết mà là phơi bày tâm điểm tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa được tỏ ra qua của lễ hy sinh. Trên đồi Can-vê Người đã chứng minh chính Người là con người bằng cách chết như mọi người khác chết; nhưng cũng chứng minh Người là Thiên Chúa bằng cái chết khác với mọi người. Hai mươi năm sau, thánh Phao-lô nhắc lại: “Chúng tôi rao giảng Đức Kitô tử giá.” Thiên Chúa có thể giành lấy con người, và sự tỏ bày tình yêu cao cả của Thiên Chúa chết cho tội lỗi để chúng ta được sống. “Thiên Chúa qúa yêu thương thế gian...“ Lôi kéo con người đến với Người được thực hiện qua lôi cuốn của tình yêu.
Cây Thánh giá là ưu điểm cho việc Người đến trần gian, bây giờ trở nên bản án cho sự dữ ở thế gian.
“Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12:31).
Vị thẩm phán tuyên án cho tội nhân; Thánh giá của Người là bản án cho thế gian. Tâm trí Người nhìn xa vượt làn ranh của vùng đất trải dài từ Dan đến Bersabee, Người tuyên bố rằng tất cả mọi người sẽ bị xét xử bởi thái độ của họ đối với Thập Giá – không phải chỉ bởi tội lỗi của họ đã đóng đinh Người, nhưng bởi vì tình yêu đã khiến cho Người ôm lấy nó. Bản án cuối cùng sẽ là sự nhìn nhận án lệnh mỗi người trải qua trong Ngày Thứ Sáu Thánh.
Cây Thánh giá đã kết thúc sự nhân nhượng dành cho “hoàng tử của thế gian” hay Sa-tan, kẻ đã thống trị con người. Cuối cùng thì cây Thập Giá đã thuyết phục con người tội lỗi, như khi luật pháp hay đạo lý đã không làm được. Nó sẽ tỏ cho thấy sự thật của tội lỗi là gì: Là đóng đinh lòng tốt của Thiên Chúa nơi xác thể; nhưng nó cũng tỏ cho họ biết Đấng tha thứ tội lỗi là chính Người họ đã treo lên, ngay cả ở trên trời, để bầu cử cho con người. Ngai tòa thiết lập cho Chúa bởi con người tỏ cho thấy sự thù nghịch của họ, và sự cai trị của sự dữ trong lòng của họ; nhưng nó cũng tỏ cho thấy rằng Người không thuộc về trần gian. Thống trị của Người thuộc lãnh vực ở trời cao nơi Người sẽ kéo mọi sự lên với Người và trở nên “Chúa của mọi loài.” Điều mà Chúa nói hôm đó, nghĩa là Người đã chiến thắng sự dữ, nhờ Cây Thập Giá, điều mà Thánh Phao-lô đã nói đến.
“Người đã xoá sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã huỷ bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá. Người đã truất phế các quyền lực thần thiêng, đã công khai bêu xấu chúng, đã điệu chúng đi trong đám rước khải hoàn của Người. Đề phòng lối sống khắc khổ theo thuyết ‘các quyền lực vũ trụ’” (Col 2:14-15)
Dù người ta không thể tin vào những phép lạ của Người, Người vẫn còn một mũi tên mãnh lực nhất trong ống đựng tên. Đó là được nâng lên khỏi đất. Nâng lên trên đồi Can-vê, nhưng sự thu hút mọi người đến với Người lại là ở việc nhìn đến sự sống lại và lên trời, bởi chắc chắn là Đấng Cứu Thế chết sẽ chẳng lôi kéo được ai. Cây Thập Giá nâng Người lên khỏi đất, và việc lên trời đưa Người về cõi trời cao, sẽ giải thoát Người khỏi những cái thuộc về đất, về xác thịt và về những ràng buộc thuộc quốc gia, khiến cho Người có thể thi hành vương quyền của Người trên tất cả mọi người. Khi đã chịu đóng đinh, Người hứa sẽ trở nên sự thu hút, lôi kéo tất cả mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ cùng mọi người đến với Người. Người đã chẳng bao giờ nói là những đạo luật luân lý sẽ lôi kéo con người đến với Người. Trái lại chính là sự tàn ác nâng Người lên khỏi đất, như thể là trái đất mà Người tạo dựng và những người ở đó không liên quan gì đến Người.
Vì từ ngữ “được nâng lên” cũng được dùng cho việc Người lên trời, ám chỉ rằng, khi được vinh thắng trên trời, không phải chỉ có người Do Thái mà cả dân ngoại, hay là “tất cả mọi người” Người muốn kéo lên với Người.
Sự thu hút của cây Thập Giá không phải là từ sự nhục nhã của nó trong ngày Thứ Sáu Thánh, nhưng bởi tình yêu thương và sự chiến thắng được thấy trong ngày Phục Sinh và Lên Trời. Một số tôn giáo lôi cuốn bởi khí giới của vũ lực; Người lôi cuốn bởi sức mạnh của tình yêu thương. Sự lôi cuốn không phải do bởi lời nói của Người nhưng là bởi chính Người. Chính Người là trọng tâm cho các giáo huấn của Người. “Không ai có tình yêu nào lớn hơn” – đó chính là bí mật của hấp lực nơi Người. Như Blake trình bày:
“Liệu bạn có yêu Người đã không muốn chết cho bạn?
Và liệu bạn có chết cho Người đã không chết vì bạn?
Nếu Người đã đến với một mục đích nào khác hơn là cứu chuộc bạn khỏi tội lỗi, thì nó sẽ không phải là sự đóng đinh trên thập giá nhưng sẽ là hình ảnh một Đức Kitô trên núi như một bậc Thầy được tôn kính. Nếu Thập Giá đã không trở nên chiến thắng vinh quang, con người đã kéo tấm màn che phủ giờ phút nhục nhã mà Người nói đến. Nếu Người đã chết trên giường, có thể Người đã được tôn kính, nhưng không phải như một Đấng Cứu Chuộc. Riêng Cây Thập Giá đã có thể tỏ ra Thiên Chúa là toàn thánh, và do đó chê ghét tội lỗi; Cây Thập Giá cũng tỏ cho thấy Thiên Chúa hoàn toàn là tình yêu và do đó chết cho các tội nhân, như thể chính Người có tội.
Lúc này dân chúng chất vấn Người:
Chúng tôi đã được học biết trong sách Luật rằng: Đấng Kitô phải trường tồn mãi mãi. Thế sao ông lại nói: ‘Con Người phải được giưong cao”? Con Người đó là ai? (Ga 12:34).
Thật lạ lùng là những người biết về Cựu Ước lại bị thất vọng vì Đấng Thiên Sai sẽ phải chết, vì chắc chắn họ đã đọc sách Tiên tri I-sai-a; họ cũng đã đọc sách Đa-ni-en là Con Người sẽ bị hành hạ chết. Sự bất đồng của họ là Đức Kitô, khi Người đến, sẽ là Người đứng vững muôn đời; vậy thì làm thế nào Người lại chết được? Cũng thật rõ ràng đối với họ là Người được nâng lên có nghĩa là chết trên Thập Giá; nó cũng là điều rõ ràng là Người nhận mình là Đức Kitô hay là Đấng Thiên Sai. Nhưng điều làm cho họ vấp phạm lại là cái chết của Người. Họ không thể hiểu sự nối kết một Đấng Thiên Sai vinh quang với Đấng Thiên Sai khổ nhục, như Phê-rô đã không thể hiểu một Đức Kitô là Thiên Chúa và Đức Kitô chịu đóng đinh. Họ đã đúng khi nói rằng Đấng Thiên Sai là vô cùng mãi mãi, vì thiên thần Gabriel đã công bố với Đức Mẹ là Người sẽ cai trị nhà Gia-cop đến “muôn đời.” Nhưng đàng khác, trong suốt Cựu Ước cũng nói Người sẽ là một của lể đền tội và là con Chiên bị đem đi hiến tế.
Chúa đã gặp sự khinh miệt của họ bằng việc kéo tấm màn che Thiên Tính của Người và bảo họ hãy đón nhận việc cứu chuộc của Người. Một số thầy dạy có thể gợi lên ánh sáng trong tâm hồn; những vị khác có thể là tim đèn cháy lấp lánh; nhưng ai cũng phải lấy ánh sáng từ nơi Người, như Người đã gọi chính Người là Ánh Sáng thế gian. Ánh sáng này sẽ không còn ở giữa họ lâu nữa. Chỉ có một mặt trời chiếu sáng thế giới; nếu họ dập tắt Ánh Sáng duy nhất của thế giới, thì bóng tối sẽ bao trùm họ. Sự mù tối tinh thần còn tệ hơn mù tối thể lý. Như ánh sáng của lý trí làm cho toàn vẹn ánh sáng của các giác quan, bởi thế Người đã gọi chính Người là Ánh Sáng vì chính đó là lý do được chiếu sáng và nên hoàn hảo. Những ai bước đi trong đức tin với Người, Người gọi họ là con cái của sự sáng.
"Ánh sáng còn ở giữa các ông ít lâu nữa thôi. Các ông hãy bước đi, bao lâu các ông còn có ánh sáng, kẻo bóng tối bắt chợt các ông. Ai bước đi trong bóng tối, thì không biết mình đi đâu. Bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng." Nói thế xong, Đức Giê-su rời nơi đó và lánh đi không cho họ thấy.” (Ga 12: 35-36).
Lý do Chúa không dùng thêm thời gian để chỉnh sửa sự lầm tưởng về việc Hiến tế của Người là vì họ đã lầm tưởng về những lời của các tiên tri trong Cựu Ước, về các phép lạ Người làm, và về việc vâng nghe Lời Người. Tạm thời, Người không để họ nhìn đến đồi Can-vê-ri-ô và bắt họ nhìn vào lương tâm của họ. Với tình thương và lòng nhân từ, Người kêu mời họ đến với Ánh Sáng của Người khi Người còn đang ở giữa họ. Đây là lời từ biệt cuối đối với công chúng, là cảnh báo đến việc đi vào bóng tối và mời họ đón nhận không phải một sự thật mà là Sự Thật.
“Bao lâu các ngươi còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng.” Nói xong, Đức Giêsu rời nơi đó và lánh đi không cho họ thấy (Ga 12:36).
Vào chiều Thứ Ba Tuần Thánh Người bước ra khỏi đền thờ. Ngày hôm sau:
“Từ sáng tinh sương, dân chúng đã tuôn ra đi theo lắng nghe Người trong đền thờ.” (Lc 21:38).
Nhưng Người đã không xuất hiện. Mặt trời đã ẩn khuất; đêm tối bao phủ. Thời giờ của bóng đêm.