Sau khi đã nói về tự thuật tiểu sử của riêng Người, Đức Kitô viết tiểu sử của tất cả những người mà Người cứu chuộc; hoa quả từ Thánh Giá của Người bây giờ phải được áp dụng cho mọi người và mọi dân tộc:
Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này. (Lc 24:47-48)
Bài giảng thứ nhất của Đức Kitô mang chủ đề Sám Hối:
Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng và nói rằng: "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần." (Mt 4:17)
Bài giảng thứ nhất của Phêrô cũng là sám hối; bài giảng thứ nhất của Phaolô cũng về sám hối; bây giờ bài giảng sau cùng của Đức Kitô trước khi lên trời cũng có chủ đề giống bài giảng thứ nhất của Người. Sám hối là quang gánh của giáo huấn trong Tân Ước. Sám hối do đó đã nối móc với việc kiện toàn lời các tiên tri xưa, nhưng trên hết là móc nối với việc áp dụng ơn Cứu Chuộc chiến thắng trên đồi Can-vê. Phêrô, người đã nghe thông điệp này, không còn bao lâu nữa, sẽ đích thân rao giảng nó:
Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội. (TĐCV 4:43)
Sám hối ám chỉ việc chừa bỏ tội lỗi và quay trở về với Thiên Chúa. Bốn mối phúc đầu Người rao giảng là một diễn giải về sự thay đổi bên trong và tận gốc rễ của tấm lòng, nghĩa là nghèo khó hay tinh thần khiêm tốn, buồn sầu vì tội lỗi, hiền lành, đói khát tình yêu của Thiên Chúa. Trong dụ ngôn Người Con Hoang Đàng, Chúa đã vẽ lên hình ảnh tâm hồn của một hối nhân “bước vào trong chính mình” giống như tội lỗi đã làm cho anh đi ra ngoài bản thân, và rồi khiêm tốn quay trở về nhà của cha anh. Các thiên thần trên trời, Người nói, vui mừng vì một người tội lỗi sám hối hơn là chín mươi chín người không cần sám hối; người thu thuế ở cuối đền thờ khóc lóc vì tội lỗi của anh, Người nói, anh đi trở về nhà được tha thứ. Bây giờ trong lời từ biệt trước khi lên trời, Người đã mời gọi thế giới sám hối.
Việc rao giảng sám hối được bắt đầu ở Giêrusalem, cho ơn cứu rỗi trước tiên đối với người Do Thái. Trong thành ấy một Hy Lễ lớn lao đã được hiến dâng vì tội lỗi của thế giới; ở đó chức linh mục đã tỏa bóng ra với các nghi thức và lời nhắn nhủ. Ở đó lời tiên tri công bố viên chỉ huy của Israen; và cũng nơi đó như I-sa-i-a đã nói:
Vì từ Xi-on, thánh luật ban xuống, từ Giê-ru-sa-lem, lời ĐỨC CHÚA phán truyền. (Is 2:3)
Lệnh Thiên Chúa truyền bắt đầu rao giảng ơn Cứu Chuộc từ Giêrusalem là dấu tình yêu thương lớn lao của Người; vì Người truyền cho các Môn Đệ đến với những người đã từng cáo gian cho Người và nói cho họ biết rằng Người là Đấng Phù Hộ cho họ; Người sẽ bầu cử cho họ từ trên cao; và sau cùng bảo đảm với họ là dù họ đã hành hạ Người, qua những roi đòn, họ vẫn sẽ được chữa lành.
Hoàn tất phần tự thuật của Mình, Chúa chúng ta lại nhắc nhở họ về Thần Khí mà Người đã hứa trong đêm của Bữa Tiệc Ly và đã thực hiện một phần khi Người thổi hơi trên họ và ban cho họ quyền tha tội.
"Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống."(Lc 24:49)
Như thế là Người đã hứa tăng ban ơn Thần Khí nhiều hơn là việc thổi hơi; đó là “quyền năng từ trời cao.” Nhưng để nhận được, họ phải đợi mười ngày sau khi Người Lên Trời. Quyền năng này sẽ lớn lao hơn quyền năng đã ban cho Mai-sen để ông hướng dẫn dân Israen; lớn hơn quyền năng đã ban cho Josua để ông chiến thắng quân thù; lớn hơn cả quyền năng đã trao cho các vua và các tiên tri; và nó sẽ giúp họ công bố ơn Cứu Chuộc. Các Môn Đệ đã không hiểu bản năng của quyền lực này; đối với họ nó có nghĩa là một cách tái tạo lại Israen:
"Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không? "(TĐCV 1:6)
Họ vẫn còn suy nghĩ theo những thói cũ về một Đấng Cứu Thế chính trị, và mong biến Giêrusalem nên cái mà Caesar đã làm cho thành Roma. Nhưng Người đã cảnh báo rằng không phải trách nhiệm của họ để biết về thời điểm hay mùa nào; tin vào một tương lai tươi sáng không có nghĩa là phải tò mò biết trước. Trong tất cả mọi sự, họ cần phải chờ đợi nơi Thiên Chúa. Hiện tại là yếu tố chính cho trách vụ tông đồ; còn đối với tương lai, có người sẽ gặt nơi không gieo.
Quyền lực họ sẽ có, nhưng không phải là quyền lực khôi phục Israen; nó sẽ là quyền lực trên các linh hồn và đưa vào tâm hồn họ ơn tha thứ và ơn thánh từ kho dự trữ Can-ve.
Nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất. (TĐCV 1:8)
Họ muốn có vương quốc trần gian; Người lại nói về một vương quốc tinh thần. Họ muốn trở lại với những cái cũ; Người lại bảo họ phải là những chứng nhân của điều mới. Và để là chứng nhân có nghĩa là tử đạo. Quyền lực trong Thần Khí của Người thì phù hợp với yếu đuối con người. Họ có thể yếu đuối như Phaolo trong việc rao giảng nhưng đầy quyền năng bởi Thần Khí. Họ bị ràng buộc giới hạn trong ý nghĩ dân tộc: Israen; Người lại đưa cả thế giới vào trong quan niệm của Người.
Quyền lực mới của họ là một món qùa; món qùa đó không đến từ bên trong do tự tin, bởi tự tin là chủ quan nghĩ một người có ảnh hưởng trên người khác hay do thuật tâm lý giúp để tin như vậy. Những cơ quan tổ chức cạnh tranh đặt nền tảng trên quảng cáo có thể lôi kéo được quần chúng, nhưng những chước thuật không thể tạo nên những ảnh hưởng tinh thần khác hơn là tiếng sấm tiếng sét. Vào lúc quan trọng này khi Đức Kitô sắp sửa chuyển trao thế giới cho mười một Môn Đệ, Người trở lại với vấn đề trong Bữa Tiệc Ly: Thánh Thần. Như khi Người bắt đầu cuộc đời công khai với Thánh Thần ngự xuống trên Người, thì bây giờ họ cũng bắt đầu sứ vụ của họ ở thế gian như vậy. Thánh Thần đã ngự xuống trên Người sau thời gian vâng lời Mẹ và Cha nuôi của Người ở Nazareth; thì Thánh Thần cũng sẽ xuống trên họ sau khi họ đã vâng lời Người căn dặn ở lại Giêrusalem khi họ tụ họp lại cùng nhau cầu nguyện. Khi quyền lực ấy đến, họ sẽ là những nhân chứng không phải chỉ cho các phép lạ của Người hay cho những lời tiên tri, hoặc cho các truyền dạy luân lý của Người, nhưng cho chính Ngôi Vị của Người. Như trên Núi Tám Phúc Người đã tái xác nhận rằng sẽ không có giáo lý nào ngoài Ngôi Vị của Người. Người ta không còn có thể chọn để tin vào lời của Người về những bông hoa huệ hay không tin vào lời của Người về hỏa ngục hơn là tin vào Mình và không tin vào Máu của Người. Với xác định Kitô giáo là Đức Kitô, Người đã sẵn sàng để lên trời với Cha của Người.