Trước khi kết thúc thời gian bốn mươi ngày, các Môn Đệ trở lại Giêrusalem một lần nữa, nơi trước đó Chúa Kitô Phục Sinh đã hiện ra với họ. Ở đó Người đã nói rõ cho họ biết là thời gian của Người hiện diện bên họ không còn nữa; ảnh hưởng của Người trên họ bây giờ sẽ đến từ trời. Nhưng trước khi rời xa họ, Người nhắc lại tầm quan trọng của lời tiên tri và lịch sử. Chưa có người nào đã từng được nói đến trước như thế; nhưng Người đã được nói đến, và họ càng tra cứu Cựu Ước thì càng hiểu ra. Từ bây giờ, Hội Thánh kín múc ra từ kho tàng của Lề Luật, Tiên Tri, và các Thánh Vịnh tất cả đều liên quan ám chỉ về Người.
"Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm." Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh (Lc 24:44-45)
Một luồng sáng mới làm cho tất cả mọi cái thấy khác hẳn với những điều họ thấy trước kia; họ nhìn thấy từ ánh sáng của Sự Sống Lại những điều trước kia còn trong bóng tối. Cần có ánh sáng khác hơn là ánh sáng của mặt trời để đọc về Mai-sen và về các Tiên Tri cũng như các Thánh Vịnh; một số những soi sáng từ bên trong, nối kết với lòng ngay và tình yêu thương, cần phải có. Một vài lần Chúa đã nói về tự thuật của riêng Người, và trong mỗi trường hợp không có ngoại trừ, đều đề cập đến việc đền bù mà Người sẽ làm giữa Thiên Chúa và loài người. Bây giờ Người tóm kết đời sống của Người lần cuối, nhắc lại cho thấy Cựu Ước đã nói về Người như Người Tôi Tớ Đau Khổ nhưng Chiến Thắng.
Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại (Lc 24:46)
Người không nhớ lại bài giảng Trên Núi, nhưng là cây Thập Giá. Không có Tin Mừng nếu không có Thập Giá; và cái chết trên Thập Giá sẽ chẳng ích gì trong việc khử trừ tội lỗi nhân loại, nếu Người đã không sống lại từ cõi chết. Người đã nói rằng Người có bổn phận phải chịu đau khổ vì Người phải vạch trần cái xấu xa của tội lỗi, và cái xấu xa ấy được phơi bày ra trong việc Đóng Đinh Sự Tốt Lành. Không có tối tăm nào hơn đã đến trần gian cho bằng sự tối tăm phủ trên Người nơi đồi Can-vê. Tất cả mọi cuộc chiến thường phủ mầu xám hay pha trộn sự tốt lành và sự dữ, ở cả hai phía; nhưng ở biến cố Đóng Đinh Thập Giá, một bên là bóng tối và một bên là trong trắng. Sự dữ không thể mạnh hơn cái là chính nó trong ngày hôm đó. Vì cái xấu xa nhất nó có thể làm không phải là dội bom lên các thành phố và giết hại cái trẻ em và việc tuyên chiến; cái xấu xa nhất và cái sự dữ có thể làm là giết Sự Tốt Lành. Bị thất bại trong việc đó, nó không bao giờ có thể chiến thắng nữa.
Sự Tốt Lành đối diện trước sự dữ phải chịu đau khổ, vì khi tình yêu đối diện với tội lỗi, nó sẽ bị đóng đinh. Một Thiên Chúa mang Thánh Tâm của Người trong tay áo, giống như Chúa đã trở nên con người, phải chuẩn bị để cho chim qụa xám mổ. Nhưng đồng thời, Sự Tốt Lành đã chọn chính đau khổ đó như điều kiện để thắng sự dữ. Sự Tốt Lành nhận lấy tất cả những giận dữ, oán hờn, ghen ghét và đã nói: “Tha Thứ”; nó chịu cho đi sự sống để ban ra một sự sống khác. Bởi thế với Người là điều thích hợp để chịu đau khổ hầu Người lại bước vào vinh quang. Sự dữ, thống trị trong binh giáp của nó và ở lúc cao điểm nhất, trong tương lai có thể thắng nhiều trận chiến, nhưng nó không bao giờ thắng được cuộc chiến.
Hy vọng đã không thể được trao cho một thế giới bị thương tổn bởi nơi Khổng Tử, Đức Phật, hay bởi một đức Kitô người đã dạy sự tốt lành và sau đó lại bị thối rữa mục nát trong mồ. Sự chữa lành không được mang đến cho đôi cánh bị gẫy bởi chủ thuyết nhân bản, cái là tình bằng hữu mà không có nước mắt; hoặc bởi một Kitô Người hiền từ mà không có nguồn kiến thức trổi vượt hơn với những bậc thầy khác, và cuối cùng cũng là Người giống như họ, không thể tung mở những trói buộc của sự chết, cũng không thể chứng minh là sự thật bị đập nát đối với thế gian lại có thể chỗi dạy.
Tóm kết rằng Chúa chúng ta trao mạng sống của Người là ném thách thức xuống con người và loại Người ra khỏi lịch sử. Có cái gì bảo đảm là sự dữ không chiến thắng sự tốt lành? Giả như Người chỉ là một người tốt hay một nhà luân lý vĩ đại nhất mà thế gian có được, thì lấy gì là đảm bảo cho sự chiến thắng của nhân đức? Cái gì là động lực của việc hy sinh? Nếu Người, Đấng đến trần gian để dạy về phẩm giá của linh hồn con người, Đấng có thể thách thức một thế giới đầy tội lỗi kết tội Người, Đấng trong lúc hấp hối đã có thể tha thứ cho các kẻ thù của Người, không có vấn đề hay đích điểm gì khác hơn là cùng treo trên khúc cây với những phạm nhân và phường trộm cướp để người Roma có một ngày lễ, rồi mỗi người có thể hỏi: “Nếu cảnh tượng này xẩy ra cho một người tốt, vậy thì tại sao một người lại phải sống tốt?” Nếu thật như thế thì, cái bất công nhất của mọi bất công sẽ bước đi không áo quần và kẻ quyền qúi cao sang sẽ chết không được thương tiếc. Hãy khen những lời khen mà một người có thể về giáo huấn của Người, sự nhẫn nại của Người khi bị tát, sự hiền lành của Người trước đám đông – những lời phân ưu này không làm cho Người trở nên Chúa của sự chết và sự sống; chúng chỉ làm cho các nhân đức này nên phù du vô ích, vì chúng không có phần thưởng.
Khi nói Người phải chịu đau khổ, Đức Kitô làm vinh danh Cha của Người. Hãy ca tụng sự thánh thiện thật nhiều như bạn muốn, nhưng người ta nghĩ gì về một Thiên Chúa, khi nhìn thấy cảnh tượng của Đấng Vô Tội đi đến đoạn đầu đài mà lại không giúp tháo những chiếc đinh ra, không đưa đến đó một cây trượng? Hay một Thiên Chúa Đấng không phái thiên thần đến để gỡ cái vòng gai nhọn đi và đặt một vòng hoa lên? Thiên Chúa có nên đứng về phe nói rằng đời sống cao qúi đã từng bước đi trên trần gian bây giờ lại bất lực trước việc ác của con người? Con người nghĩ gì về tính nhân loại, nếu bông hoa trắng của đời sống trong sạch bị chà đạp dưới mũi giầy của những người hành quyết Roma, để rồi bị bỏ cho thối rữa như bông hoa tàn? Chẳng lẽ nó không bay ra mùi tanh hôi hơn vì sự dịu ngọt nguyên thủy của nó và làm cho chúng ta thù ghét không những Thiên Chúa, Đấng chẳng quan tâm đến sự thật, tình yêu, nhưng ngay cả con người chúng ta vì đã ở phe làm nên cái Chết của Người? Nếu đây là cái kết của tốt lành, thì tại sao lại phải sống tốt làm gì? Nếu đây là cái xẩy ra đối với công lý, thì hãy để cho kẻ cường hào cai trị.
Nhưng nếu Chúa của chúng ta nhận lấy cái tồi tệ nhất mà thế gian trao cho người, và rồi với quyền lực của Thiên Chúa đã vượt lên trên nó; nếu Người, không võ trang, đã có thể ra trận không mang vũ khí nào khác ngoài lòng tốt và sự tha thứ, để rồi người bị giết lại là người được lợi, và những kẻ giết Người lại bị thiệt hại, như vậy thì còn ai mà không có hy vọng? Còn có ai phải sợ bị kẻ thù đánh bại bao giờ? Còn có ai không dám tin tưởng khi nhìn thấy trong bóng tối Đấng Sống Lại đang bước đi với những vết sẹo vinh quang trên tay chân và cạnh sườn của Người? Luật Người trao ban thật rõ ràng: Đời sống là một chiến đấu; trừ khi có Thánh Giá trong đời sống của chúng ta, sẽ không bao giờ có ngôi mộ trống; trừ khi có vòng gai nhọn, sẽ không bao giờ có triều thiên sáng láng; trừ khi có Ngày Thứ Sáu Khổ Nạn, sẽ không bao giờ có Chúa Nhật Phục Sinh. Khi Người nói: “Thầy đã chiến thắng thế gian,” Người không có ý nói là những ai theo Người sẽ tránh thoát kẻ thù, đau khổ, buồn sầu, và đóng đinh. Người không ban thứ bình an hứa làm tan hết xung đột; vì Thiên Chúa ghét thứ bình an nơi những người chủ trương chiến tranh. Nếu Cha Trên Trời không tha mạng cho Con của Người, thì Người, Người Con của Cha trên Trời, cũng sẽ không tha mạng cho các môn đệ của Người. Cái mà Sự Sống Phục Sinh trao ban không phải là tránh thoát sự dữ ở thế gian này, nhưng là tránh khỏi tội lỗi trong linh hồn.
Chúa Cứu Thế không bao giờ nói với các Môn Đệ của Người: “Hãy sống tốt và anh em sẽ không phải khổ”; nhưng Người đã nói: “Ở thế gian anh em sẽ gặp thử thách.” Người cũng bảo họ đừng sợ những người giết thân xác, nhưng tốt hơn là sợ những kẻ có thể giết linh hồn. Bây giờ Người bảo các Môn Đệ rằng đời sống của Người là mô phạm cho tất cả những ai đi theo làm môn đệ của Người; họ được khuyến khích nhận lấy những cái tồi nhất mà thế gian đem đến cho họ với lòng can đảm và bình tĩnh. Người nói rằng tất cả những khổ đau chỉ như bóng rợp từ “cánh tay của Người giang ra cách yêu thương.” Người chẳng hứa phù phép nào với chúng ta để được che chở khỏi các thử thách; đúng hơn, như vịên Chỉ Huy Trưởng Người đã xông vào chiến trận để thôi thúc con người biến đổi một số những đau đớn nhất của cuộc đời thành những mối lợi to lớn nhất cho đời sống tinh thần. Chính Thập Giá của Đức Kitô đã nêu lên những vấn nạn của cuộc sống; và chính Sự Sống Lại trả lời cho những vấn nạn đó. Không phải sự yểu điệu dịu dàng nhưng là sự hùng dũng cương trực của Đức Kitô Đấng đã dương buồm trước thế giới sự dữ để hứa chiến thắng nơi chính Thân xác của Người – lá cờ chiến thắng Cứu Chuộc. Như nhà thơ Edwar Shilito đã viết: “Không thần thánh giả trá nào, tránh khỏi đau khổ và buồn sầu, có thể an ủi chúng ta trong những ngày này.”
Giêsu đầy vết sẹo
Nếu chưa bao giờ chúng con tìm Người thì bây giờ tìm;
Ánh mắt Người chiếu xé màn đêm, chúng con chỉ như ánh sao chìm;
Chúng con chỉ thấy những gai nhọn trên vầng trán Chúa,
Chúng con phải được Chúa, Ôi Giêsu đầy sẹo tình.
Các tầng trời qúa bình thản làm chúng con thất đảm;
Cả vũ trụ bao la chúng con không chỗ đứng.
Vết thương nơi chúng con kêu đau; thuốc xoa dịu đâu?
Giêsu Chúa ơi, từ những vết sẹo của Chúa ơn chúng con xin.
Nếu khi cánh cửa dập đóng lại, thì Chúa xuất hiện gần bên,
Chỉ cho xem đôi bài tay và cạnh sườn Chúa;
Và chúng con biết những vết thương là gì, nên không còn sợ;
Nhìn những vết sẹo nơi Người, chúng con nhận ra thuốc chữa.
Những thần khác mạnh mẽ; nhưng Chúa lại nhũn mềm.
Họ cưỡi ngựa, còn Chúa lê gót bước đến ngai;
Vết thương nơi chúng con, chỉ vết thương của Chúa nói,
Không chúa nào có thương tích, nhưng chỉ mình Chúa thôi.
Edward Shillito, 1872-1948
*From the book entitled Masterpiece of Religious Verse, edited by James Dalton Morrison (Harper & Brothers, New York). Reprinted permission.