Một Thiên Chúa làm người chịu khổ đau bị coi là một “tai tiếng” không chấp nhận được. Con người không muốn nghe về tội lỗi của họ và nhu cầu cần phải đền tội. Bởi thế bất cứ khi nào Đức Giêsu đưa vấn đề Thập Giá của Người vào đề tài diễn giải với các môn đệ của Người thì họ bắt đầu tranh luận với Người hay với nhau. Họ vẫn còn ôm ấp cái ý tưởng về Vương Quốc của Người sẽ thuộc lãnh vực chính trị chứ không thuộc tinh thần. Nếu Người dự tính đi lên đồi Can-vê, thì điều tốt hơn hết là họ nên “đầu tư” ngay vào những phần thưởng chiến thắng, địa vị và những đặc ân đang đón chờ họ. Lời tiên báo về Thập Giá của Người càng rõ hơn thì những tham vọng, ghen tị và cạnh tranh của họ càng tăng lên.
Không gì đẹp hơn phương cách Chúa Giêsu dùng để chuẩn bị cho các môn đệ của Người về bài học không thể sánh kịp chuyển từ cái dường như bị thất bại trở nên điều kiện để chiến thắng. Họ qúa chậm hiểu câu truyện tại sao Người phải chịu đau khổ! Không lạ gì Chúa Giêsu đã ít nói với họ về Thập Giá và Sự Sống Lại của Người. Bởi đó là điều ít người có thể hiểu được cho đến sau khi mọi chuyện đã xẩy ra và Thần Khí của Đức Kitô đến với các môn đệ của Người. Nhiều lần Người đã nói ám chỉ về cái chết của Người; nhưng ba lần Người đã nói rõ ràng về mục đích Người đến:
Nhưng phản ứng của các Tông Đồ lại thật kỳ lạ! Giống như họ muốn cứu vớt, khỏi cái Vương Quốc bị lâm nạn chìm đắm của Người, một vài người lại nghĩ đến việc tìm địa vị và quyền lực. Lấy Thập Giá làm điều kiện để vào Vương Quốc của Người thực đã là điều vượt ngoài tầm suy nghĩ của họ.
Khi Chúa Giêsu đi đến thành phố phía cực bắc của miền Đất Thánh này, một thành phố có nửa dân cư là người Do Thái và một nửa là dân ngoại, Người đã như đang nói chuyện với một Giáo Hội mà Người sẽ thiết lập. Nhưng trước khi làm việc ấy, Người cần phải hình thành rõ một hệ thống quản trị khung mẫu để cai quản. Hệ thống quản trị khung mẫu này có thể là ba tầng lớp: Dân quyền, Quân quyền, và Thần quyền. Dân quyền là một khung mẫu mà quyền hành và chân lý được quyết định bởi việc bầu phiếu hay do tỉ lệ của số đông. Quân quyền là khung mẫu quyền lực nắm giữ bởi một nhóm người; Thần quyền là hệ thống khung mẫu mà chính Thiên Chúa chỉ thị và hướng dẫn do bởi mạc khải và chân lý.
Lần ra quân thứ nhất là khung mẫu dân chủ, Người hỏi các môn đệ xem người ta quan niệm thế nào về Người. Nếu có một cuộc thăm dò hay bầu phiếu để làm căn bản do sự thẩm định có thể sai lầm của con người, thì câu trả lời của họ cho câu hỏi này là gì?
“Người ta bảo Con Người là ai?” (Matt 16:13).
Sự bất đồng quan điểm về Thiên Tính của Người giữa những người trong nhóm được biểu lộ qua câu trả lời của họ.
Họ đã thưa lại, một số người nói là Gioan Tẩy Giả, một số nói là E-li-a, một số khác lại nói là Giê-rê-mi-a, hay một trong những tiên tri. (Mt. 16:14).
Ý kiến con người chỉ có thể nêu lên những câu trả lời mâu thuẫn, trái nghịch và khác biệt nhau. Bởi những ý kiến khác nhau như thế cho thấy Chúa Giêsu được nhiều người trong quần chúng biết đến, nhưng chẳng có ai thực sự biết được danh tánh chức vụ của Người. Herod cho Người là hiện ảnh của Gioan Tẩy Giả sống lại; nhiều người khác nghĩ Người là E-li-a, bởi vì ông đã được đưa lên trời; và một số người lại nghĩ Người là Giê-rê-mia, bởi vì họ tin rằng Giê-rê-mi-a đến như một tiền thân của Đấng Thiên Sai.
Vì không một Giáo Hội nào có thể được thiết lập do bởi sự nhầm lẫn theo kiểu này, Chúa quay sang khung mẫu hệ thống quản trị quân quyền bằng cách hỏi những người đã được chọn, cái quốc hội nhỏ của Người, đó là nhóm tông đồ để nghe quan điểm của họ.
Phần anh em, anh em bảo Thầy là ai? (Mt. 16:15).
Lời yêu cầu ở đây dành cho tất cả những người đã nghe các giáo huấn của Người, đã chứng kiến các phép lạ, và đã được diễm phúc có thẩm quyền làm được phép lạ cho người khác. Cái quốc hội này cũng chẳng có câu trả lời – một phần vì họ đã không thể có cùng quan điểm với nhau; chỉ trong khoảng khắc năm phút họ đã tranh luận với nhau. Giuđa chắc chắn nghi ngờ sự khôn ngoan về vấn đề tài chánh của Người. Phi-lip nghi ngờ quan hệ của Người với Cha trên trời; và tất cả mọi người trong nhóm đã phần nào mong có một vị lãnh đạo giải phóng kiểu thế gian, một người sẽ làm cho tiếng gầm của những con đại bàng Rôma phải câm miệng trên quê hương đất nước của họ.
Bỗng nhiên, không có sự cổ động hay đồng tình của những người khác, Phêrô lên tiếng trả lời đúng và kết thúc: Thầy là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống (Mt. 16:16).
Phêrô đã tuyên xưng Đức Kitô thực là Đấng Thiên Sai, được Thiên Chúa sai đến để tỏ cho con người biết ý định của Người và để chu toàn mọi lời tiên tri và lề luật về Người. Người là Con Thiên Chúa, được sinh ra từ đời đời, nhưng cũng là Con Người được sinh ra trong thời gian – là Thiên Chúa thật và là người thật.
Chúa nói cho Phêrô biết là ông không biết được điều này do bởi tự ông; vì không có lịch trình học hỏi tự nhiên hay cách phân định nào có thể tỏ cho ông cái chân lý cao cả này.
Simon con Gio-na, ngươi thật có phúc! Ngươi đã không học biết được điều này do bởi con người; nhưng mà là do Cha trên trời đã tỏ cho ngươi biết. (Matt 16:17).
Chúa đã gọi Phêrô với cái tên mà ông đã có trước khi trở thành một Tông Đồ. Sau đó Người gọi ông bằng danh xưng mới mà Người đã đặt cho ông, là Đá, ám chỉ là trên tảng đá đó Người sẽ xây Giáo Hội của Người. Phêrô đã được Chúa nói đến ở ngôi vị riêng thứ hai cho biết rằng không phải bởi lời tuyên xưng của ông về Thần Tính của Chúa, mà chính vì Phêrô sẽ là đầu trong Giáo Hội:
Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy." (Mt. 16:18-20).
Sau khi hứa là các cửa hỏa ngục, hay sự sai lầm hoặc ma qủi cũng không thể thắng nổi Hội Thánh của Người, Chúa đã công khai tuyên bố lần đầu tiên trong nhiều lần về cái chết của Người đang đến gần. Người đã nhiều lần nói ám chỉ đến nó; nhưng các Tông đồ đã chậm nhận ra rằng Đấng Thiên Sai sẽ phải chịu đau khổ như lời Isaia đã tiên báo.
Họ không nhận ra trọn ý của điều Người đã nói khi Người thanh tẩy đền thờ và nói Người là Đền Thờ của Thiên Chúa, và ngôi Đền Thờ sẽ bị phá hủy. Họ cũng không hiểu giáo huấn của Người về con rắn đồng được treo lên như lời tiên tri nói về việc Con Người sẽ phải bị treo trên cây Thập Giá. Nhưng bây giờ người mà Người chọn làm đầu nhóm tông đồ đoàn đã tuyên nhận Thần Tính của Người, thì Người công khai tỏ cho họ biết con đường đưa đến vinh quang cho Người và cho họ là qua lối đau khổ và cái chết.
Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. (Mt. 16:21).
Chúa đã không công khai nói gì về cái chết của Người khi các môn đệ còn nghĩ Người chỉ là một con người; nhưng khi Người được họ nhận biết là Thiên Chúa, thì Người đã công khai nói về cái chết của mình. Làm như thế là để họ có thể hiểu đúng rằng cái chết của Người là một hiến tế vì tội lỗi.
Một lần nữa trách nhiệm đòi buộc huyền bí hướng dẫn đời của Người lại xuất hiện. Nó là một sợi giây trói buộc Người và tạo nên bởi sợi giây đan ngang dọc; một bên là vâng nghe theo ý của Chúa Cha và bên kia là yêu thương loài người. Vì Người muốn cứu chuộc nên Người phải chịu chết. Sự “đòi buộc” không phải chỉ là cái chết; vì Người đã nói ngay đến việc sống lại trong ngày thứ ba.
Một sự nối kết tự bản chất đã có giữa việc nhìn nhận Thiên Tính của Đức Kitô và Cái Chết cùng sự sống lại của Người. Ngay lúc Đức Kitô nhận cái danh hiệu cao trọng nhất trong mọi danh hiệu, và lời tuyên xưng ca ngợi danh thánh của Người, thì Người đã tiên báo về sự xỉ nhục tuyệt đỉnh dành sẵn cho Người. Cả hai tính nhân loại và tính Thiên Chúa nơi Đức Kitô đã có ở trong lời tiên báo, Con Người Đấng đã xuất hiện trước mắt họ và Con Thiên Chúa Hằng Sống, Đấng vừa mới được xưng tụng.
Phêrô đã buột miệng và với quyền lực vừa được ban cho, đã kéo Chúa qua một bên và can ngăn Người:
"Không được! Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt. 16:22).
Về Thiên Tính của Đức Kitô, ông có thể nhìn nhận; về Đức Kitô đau khổ, ông không chấp nhận. Tảng đá đã trở nên đá cản đường; Phêrô muốn có phân nửa Đức Kitô, Đức Kitô là Chúa, nhưng lại không muốn Đức Kitô Cứu Chuộc. Nhưng Đức Kitô phân nửa thì chưa phải là Đức Kitô. Ông muốn có Đức Kitô mà vinh quang của Người được loan báo ở Bê-lêm, nhưng lại không muốn một Đức Kitô đầy đủ, Đấng sẽ là của lễ hy tế vì tội lỗi trên Thập Giá.
Phêrô đã suy nghĩ, nếu Người là Con Thiên Chúa thì tại sao phải chịu đau khổ? Lúc ở trên núi Satan đã cám dỗ Người trốn tránh Thập Giá bằng cách hứa cho Người được nổi tiếng qua việc biến những cục đá trở nên bánh, làm những màn biểu diễn ngoạn mục, hay trở nên kẻ cai trị độc nhất. Satan đã không tuyên xưng danh thánh của Đức Kitô, vì hắn đã khởi xướng mỗi mặc cả của hắn bằng giả định “nếu” – Nếu Người là Con Thiên Chúa.” Ở đây, ta phải khen Phêrô, vì ông đã tuyên xưng Danh Thánh của Đức Kitô. Nhưng cùng với sự khác biệt này, lại có một điểm tương đồng: Cả Phêrô và Satan đã muốn dụ dỗ Chúa chạy trốn Thập Giá, và nếu làm như vậy là chạy tránh ơn cứu chuộc. Ý muốn của Satan là không cứu chuộc gì cả; tinh thần của Satan là có hào quang mà không có Thập Giá. Nhưng đó cũng là ý của Phêrô. Bởi thế Chúa đã gọi ông là Satan.
"Sa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." (Mt. 16:22).
Trong lúc không đề phòng, Phêrô đã để cho Satan lẻn vào lòng, và đã trở nên viên đá cản lối trên đường đến Can-vê. Phêrô đã cho rằng việc Đức Kitô đau khổ là điều không xứng hợp; nhưng đối với Chúa thì suy nghĩ như thế là hoàn toàn theo tính xác thịt con người và thuộc đường lối của ma qủi. Chỉ nhờ bởi ánh sáng Chúa soi dẫn thì Phêrô hay bất cứ một người nào khác mới biết Người là Con Thiên Chúa; nhưng cũng cần có ánh sáng của Thiên Chúa để Phêrô hay một người nào khác nhận biết Người là Đấng Cứu Chuộc. Phêrô có thể đã chỉ kéo giữ Người lại như một vị Thầy đạo đức nhân loại – nhưng Satan cũng muốn giống như thế.
Phêrô đã không bao giờ quên lời quở trách này. Nhiều năm sau, vẩn còn nhớ cái ý tưởng là một viên đá cản lối, ông đã viết đề cập đến những người không chấp nhận Đức Kitô đau khổ như chính ông đã nghĩ khi ở Caesarea Philipi:
Vậy vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin, thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường ,và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy. (1 Pher 2:7).
Các tông đồ đã có Phêrô là một phát ngôn viên tài khéo, và họ đều sửng sốt ngỡ ngàng về sự đau khổ của Thầy họ, điều đó thật rõ ràng với bằng chứng là sau khi quở trách Phêrô, Người đã nói với tất cả mọi người trong nhóm các môn đệ và tất cả đám đông hãy tin vào lời nhắn nhủ của Người. Với tất cả những ai muốn tuyên xưng là môn đệ của Người, Người đặt ra ba điều kiện:
Người nói với họ rằng: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo (Mc 8:34).
Thập Giá là lý do để Người đến trần gian; bây giờ người biến nó thành dấu chỉ riêng cho những ai theo Người. Người không làm cho Kitô giáo trở nên một tôn giáo dễ dàng; vì Người ám chỉ rằng không những là phải tự nguyện từ bỏ mọi cái cản trở nên giống Người, nhưng còn phải đau khổ, bị xỉ nhục và chết trên Thập Giá nữa. Họ không cần phải vẽ lên một chuỗi đường dài của việc hy sinh, nhưng chỉ đơn giản hăng hái bước theo dấu chân của Người như Con Người của Đau Khổ. Không môn đệ nào được gọi mà không qua thử thách. Người đã vác Thập Giá trước. Chỉ những ai sẵn lòng chịu đóng đinh với Người mới có thể được cứu thoát nhờ công nghiệp sự chết của Người và chỉ những ai vác Thập Giá mới có thể hiểu Người.
Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất; nhưng nếu ai liều mất mạng sống mình vì danh Thầy thì sẽ giữ được nó. (Lc 9:24).
Nếu sự sống thể lý tự nhiên được bảo toàn để được sung sướng, thì sự sống tinh thần cao cả hơn sẽ bị mất, nhưng nếu sự sống cao cả hơn của tinh thần được chọn cho ơn cứu độ, thì sự sống thể lý thấp hèn hơn phải phục lụy Thập Giá và tự chế. Có thể có một số nhân đức không cần đến Thập Giá, nhưng không bao giờ có sự thăng tiến trong nhân đức mà lại không có thập giá.
Chúa giải thích rằng, việc vác Thập Giá được đặt nền tảng ở việc trao đổi. Trao đổi có nghĩa là có cái gì đó người ta có thể sống mà không cần, và có cái gì đó người ta không thể sống mà lại thiếu nó. Một người có thể sống mà không cần có mười đồng xu, nhưng họ không thể sống mà không có cơm bánh nhờ có mười đồng xu để mua cơm bánh; do đó họ đã trao đổi tiền để lấy cơm bánh. Hy sinh không có nghĩa là “đầu hàng bỏ đi” cái gì đó, như thể là bị mất đi; đúng hơn đó là một sự đổi chác: một đổi chác những cái kém giá trị hơn để được niềm hoan lạc cao cả hơn. Nhưng chẳng có gì ở thế gian này đáng giá hơn linh hồn:
Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì? Quả thật, người ta lấy gì mà đổi lại mạng sống mình? (Mc 8:36)
Ngay lúc Các Tông Đồ hổ thẹn vì danh Người khi Người nói đến chuyện bị bắt và bị giết chết, Người đã cảnh cáo răn đe những ai hổ thẹn về Người hay về những lời giáo huấn của Người, hoặc là chối bỏ Người khi bị bắt bớ. Nếu Người chỉ đơn giản là một nhà giáo, thì thật lố bịch để tuyên bố là mọi người phải công khai không hổ thẹn, tuyên xưng Người là Chúa và là Đấng Cứu Chuộc; họ chỉ cần nói lên vài điều về giáo huấn của Người thì cũng đủ xứng hợp. Nhưng ở đây Người đặt thành điều kiện để được cứu rỗi khi người ta mạnh dạn tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa Đấng Chịu Đóng Đinh.
Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì tôi và những lời tôi dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha Người." (Mc 8:38).
Lần công bố thứ hai về Cuộc Khổ Nạn của Người là lúc sau biến cố Hiển Dung và trừ qủi ra khỏi một cậu bé. Chúa Giêsu và các Tông đồ đã trở lại Ca-phar-na-um. Nhiều phép lạ Chúa đã làm giữa hai thành phố Caesarea Philippi và Ca-phar-na-um đã làm cho các Môn đệ vui mừng phấn khởi.
Mọi người đều kinh ngạc trước quyền năng cao cả của Thiên Chúa (Lc 9:44).
Các Môn đệ bắt đầu hiểu cái quyền năng này trong hy vọng về một triều đại của vương quốc trần thế, cho dù họ đã được nghe những bài học về Thập Giá. Loại vui mừng phấn khởi tôn giáo như thế không cứu được nhân loại, và Chúa đã không hài lòng.
"Phần anh em, hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời." Nhưng các ông không hiểu lời đó . . . (Lc 9:44).
"Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại." (Mc 9:30).
Chúa Giêsu đã nhắc lại rất rõ lời tiên báo về Can-vê để khi xẩy ra, các môn đệ của Người không bị suy yếu đức tin hay lìa bỏ Người. Những lời công bố được nhắc lại cũng để đảm bảo cho họ là Người không đi đến cây Thập Giá do bởi bị cưỡng ép, nhưng là một việc tự hiến. Viễn tượng mà Chúa để ra trước mắt họ về cái chết của Người họ đã hiểu ngược lại; họ không những không để ý đến, mà còn coi thường bỏ ngoài tai không muốn hỏi lại.
Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì đối với các ông, lời đó còn bí ẩn, đến nỗi các ông không nhận ra ý nghĩa. Nhưng các ông sợ không dám hỏi lại Người về lời ấy. (Lc 9:45).
Lần công bố thứ hai về cái chết và sự vinh quang của Người đã nổi lên cuộc tranh cãi thứ hai. Khi họ đang trên đường đi về Ca-phar-na-um, họ đã tranh luận với nhau, nhưng không để cho Chúa nghe thấy:
Họ đã tranh luận với nhau xem trong nhóm của họ ai là người quan trọng nhất? (Lc 9:46).
Lời của Chúa nói với họ về cái Chết của Người đã ảnh hưởng rất hời hợt nông cạn như đã thấy họ vẫn còn quan tâm bàn luận trong cái mà họ suy tưởng về một Vương Quốc của Thiên Chúa theo kiểu chính trị và kinh tế trần thế! Từ miệng của Chúa, họ đã nghe nói đến việc chịu đau khổ của Người, mà bây giờ họ lại tranh luận về chức quyền. Rất có thể khi địa vị quyền bính được trao cho Phêrô ở Philippi đã làm tăng nhiệt trong cuộc tranh luận; cũng có thể vì Phêrô, Giacôbê và Gioan được chọn chứng kiến biến cố Chúa Hiển Dung đã gây nên bất mãn khó chịu cho vài người trong họ. Nói cho cùng, họ đã luôn tranh luận bất cứ khi nào Người nói đến Thập Giá.
Biết là cuộc khủng hoảng đang đến gần khi Người muốn thiết lập Vương Quốc, họ đã sôi lên với tham vọng. Nhưng Chúa biết họ đang nghĩ gì; và khi họ vào trong nhà ở Ca-phar-na-um nơi họ thường được tiếp đãi nồng hậu, rất có thể là nhà của Phêrô:
Khi về tới nhà, Đức Giê-su hỏi các ông: "Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy? " Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. (Mc 9:33-34).
Những cái miệng to khi tranh luận trên đường bây giờ lại lặng thinh khi Chúa đọc được tâm tưởng của họ và khi lương tâm khiển trách họ. Họ đã ít để ý quan tâm đến lời của Người khi đề cập đến Thập Giá; đó có thể là lý do để họ không nắm bắt được tại sao một Đấng có uy quyền mà họ đã từng chứng kiến các phép lạ của Người và việc làm cho kẻ chết sống lại như thế lại có thể tỏ ra như yếu đuối bất lực. Tại sao Người lại phải chịu chết dễ dàng như thế mà không tự giải cứu chính mình được? Điều đó là một nan giải huyền nhiệm không hiểu nổi cho đến khi mọi sự hoàn thành; ngay cả sau khi được hoàn thành, thì nó vẫn là một điều tai tiếng đối với những kẻ không tin trong số những người Do Thái và Hy Lạp. Như Thánh Phaolô nói với giáo đoàn Corintô:
Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. (1Cor 1:23-24).
Hiển nhiên là một người bình thường theo lẽ tự nhiên và xác phàm, sẽ đón nhận Người như Đấng đến để trao ban những nguyên tắc đạo đức luân lý, có thể trưng bày ở cổng của các thánh đường; nhưng nhìn nhận Người là Đấng đến trần gian như một kẻ “chuộc tội” cho loài người thì đòi phải có một sự khôn ngoan cao cả hơn. Như Thánh Phaolô nói:
Con người sống theo tính tự nhiên thì không đón nhận những gì của Thần Khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ; họ không thể biết được, bởi vì phải nhờ Thần Khí mới có thể xét đoán. (1Cor 2:14).
Lần này, để sửa quan niệm sai lầm về sự trọng vọng với cao trọng, Chúa đã gọi một em nhỏ đến:
Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy. (Mc 9:35)
Vì các môn đệ đã bất đồng quan điểm ai là người cao trọng nhất trong Nước Trời, bấy giờ Chúa trả lời cho cái não trạng hám danh của họ:
Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không trở nên như con trẻ, thì anh em sẽ không vào được Nước Trời. (Mt. 18:3-4)
Người cao trọng nhất trong các môn đệ là người trở nên giống như con trẻ; vì con trẻ như trong vai vế đứng đại diện cho Thiên Chúa và Con của Người ở trần gian. Có hàng quí phái trong Vương Quốc của Người, nhưng nó ngược lại với chức sắc trần thế. Trong Nước của Chúa một người được trổi lên do bởi dìm chìm đi; một người được nâng lên do bởi tự hạ mình xuống. Người nói là Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ. Chính nơi bản thân Người đã tỏ bày sự hạ bệ đến tột cùng của thất bại chết Thập Giá. Vì họ đã không hiểu Thập Giá, Người thách họ hiểu về trẻ nhỏ mà Người âu yếu ôm vào lòng. Người cao trọng nhất là người nhỏ bé nhất, và người nhỏ bé nhất lại là người cao trọng nhất. Trọng vọng và vinh dự không phải dành cho người ngồi ở đầu bàn tiệc, nhưng là cho người mang chiếc khăn đi rửa và lau chân cho các đầy tớ của họ. Đấng là Chúa đã trở nên con người; Đấng là Chúa trên trời, đã tự hạ dưới đất nằm trên Thập Giá; Đây là một nghĩa cử khiêm tốn không thể sánh kịp đòi họ phải học hỏi. Nếu họ không học được từ nơi Chúa, thì họ phải học lấy từ nơi một trẻ nhỏ.
Lời tiên báo thứ ba của Chúa liên quan đến Thập Giá khiến cho cuộc tranh luận giữa các Môn Đệ xẩy ra chỉ hơn một tuần trước khi Người chịu đóng đinh. Người đang trên đường cùng với các Môn đệ lên Giêrusalem lần cuối cùng. Cuộc đi có vẻ vội vã; quyết tâm và có chủ đích đã lộ rõ trên gương mặt của Người khiến các Môn đệ không thể không nhận ra.
Đức Giê-su và các môn đệ đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình (Mc 10:32).
Thầy đã bước xa trước các Môn đệ của Người trên đường lên đỉnh núi. Trong khi họ còn lẽo đẽo ở đàng sau, co rúm lại trong lo sợ không hiểu ý thì Người lại vội vã tiến đến Thập Giá của mình, duy nhất một ý nghĩ trong tâm trí: Sự tự nguyện hiến tế của Người. Theo hoạch định của Chúa Cha, Thập Giá là điều cần thiết phải có đối với Người như là phương tiện để đem lại sự sống cho những người khác. Các Tông Đồ, ngược lại, cho đến lúc đó vẫn còn đang tìm kiếm một số dấu tỏ bày quyền lực để giải thoát đất nước của họ khỏi ách thống trị Rôma và cất nhắc họ lên vinh danh tiến chức trong quyền hành. Họ đã ngỡ ngàng và không hiểu khi thấy Người sẵn sàng tiến vào Giêrusalem, vì vào đó có nghĩa là chịu khổ đau. Họ đã mơ ước cái ngai tòa, còn Người lại nghĩ đến Thập Giá. Đọc biết suy nghĩ của họ, Người đã gọi các Môn đệ ra và nói:
Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình: "Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại." (Mc 10:32-34).
Một lần nữa Người lại trộn gói giấm chua Thương Khó của Người trong mật ngọt của sự Sống Lại. Can-vê ở trước mặt không phải là cái mà Người có thể bỏ qua, mà là điều Người cần phải đón nhận trong vai trò tử đạo. Có sự co rút trước đau khổ theo tính loài người, điều mà ma qủi đã muốn đến dò xét về Người; nhưng cái co rút đó không bao giờ trở nên mục đích. Như con tầu có thể bị chao đảo bởi sóng gió, trong khi vẫn giữ được thăng bằng, thì bản tính tự nhiên nơi Người có thể bị chao đảo, trong khi dưới boong tầu vẫn là mục đích của Chúa Cha, cố định và không lay chuyển đổi thay. Nhưng các Môn đệ không thể hiểu về cái chết thay, vì hiến dâng, vì người khác, và đồng thời lại là một sự đền bồi vì tội lỗi.
Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói. (Lc 18:34).
Làm thế nào để có thể, Người là Đấng có uy quyền trên sự chết, trên sóng gío bão táp, và có trí tuệ khiến cho những người biệt phái phải ngậm miệng, vậy mà bây giờ Người lại để cho họ phải lo lắng bất ổn và xô đẩy họ quay trở lại thế giới vì Người không thể đối chọi lại với kẻ thù? Đó chính là nỗi băn khoăn lo lắng của họ.
Như ở hai trường hợp khác, bây giờ Người lại nói về cái chết của mình, một tranh luận khác lại bộc phát ra giữa các Môn đệ. Giacôbê và Gioan, những người đã tạo tiếng vang khi họ tỏ ra khó chịu với cách đối xử không thân thiện của dân làng Samaria và đã xin Chúa cho tiêu diệt dân ấy đi, bây giờ lại ngỏ lời thỉnh cầu. Hai anh em, có lần đã xin cho lửa từ trên xuống thiêu đốt những kẻ không đồng tình với họ, bây giờ lại xin được lên lon thăng quan chức tước. Theo tính hám danh tự phụ thiếu xứng hợp, ngay lúc Người vừa mới nói về cái chết của Người, họ lại xin Chúa ban cho họ làm cái khí cụ giả trá phù vân trong ý đồ của họ.
"Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang."(Mc 10:37).
Họ có sự nhận thức phần nào về uy quyền của Đức Kitô, vì họ coi Người là một vị Vua có thể ban phát những thỉnh nguyện của họ; nhưng quan niệm của họ về Vương Quốc của Người thì lại thuộc hạ giới. Thân thế gia đình phe cánh và đặc ân cá nhân chiếm địa vị cao trong đất nước trần thế; Giacôbê và Gioan, cho rằng Vương Quốc của Thiên Chúa thuộc trần thế, nên đã nghĩ là việc thăng quan tiến chức của họ cũng có thể đặt nền tảng ở đó. Nhưng Chúa đã trả lời cho họ:
"Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không? (Mc 10:38).
Ban phát vinh dự trong Vương Quốc của Người không phải là việc làm theo chủ trương biệt đãi phe nhóm, nhưng là bởi sự hợp tác với Thập Giá. Nếu Người phải chết để sống lại vinh quang, thì họ cũng phải chết để tìm thấy vinh quang. Nếu Người phải uống chén đắng để chiến thắng sự dữ, thì họ cũng phải uống chén đắng ấy. Chén được dùng ở đây có nghĩa như một biểu tượng của sự thất bại đổ lên Người bởi những người không tin. Trong phép rửa bằng máu, Người đã hoàn toàn tắm nhuộm ở đó; nhưng hình ảnh đó cũng ngụ ý trong việc Thanh Tẩy hay Sự Sống Lại.
Để trả lời câu hỏi về việc uống chén thì Giacôbê và Gioan trả lời, “Chúng tôi có thể uống.” Dù họ không hiểu chính xác cái mà họ đồng ý chấp nhận, Chúa đã tiên báo sự kiện toàn trong đức tin của họ. Giacôbê đã là người đầu tiên chia sẻ phép rửa bằng máu của Đức Kitô, qua việc bị Herode giết chết. Gioan, đã chịu đau khổ bởi bị bắt bớ và cầm tù. Sau khi bị bỏ vào vạc dầu sôi, ông đã được gìn giữ thoát chết do bởi phép lạ và sau này chết trong tuổi già ở Patmos. Giacôbê trở nên quan thầy của các vị Tử Đạo Đỏ, vì ông đã đổ máu ra để uống chén của Chúa. Gioan trở nên biểu hiệu của cái gọi là Tử Đạo Trắng, người đã kiên cường chịu khổ đau và chết theo cách tự nhiên.
Bây giờ là cuộc tranh luận.
Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an (Mc 10:41).
Họ tức tối bởi vì ai cũng tham vọng như thế. Chúa đã gọi tất cả mười người kia lại. Giacôbê và Gioan đã học bài học đó rồi; bây giờ đến lượt mười người khác. Bài học thứ nhất Người dạy họ là nhắc lại cái mà Người đã đề cập đến ở Ca-phar-na-um khi Người đặt một trẻ nhỏ ở giữa họ, đó là bài học khiêm tốn. Điều họ được chỉ bảo bây giờ không phải là cái làm cho họ nên trổi vượt trong Vương Quốc của Người, nhưng đúng hơn là ý nghĩa của sự trổi vượt ấy. Người đề cử một so sánh khác biệt giữa chủ nghĩa chuyên chế của những kẻ quyền thế trần gian và sự thống trị của tình yêu trong Vương Quốc của Người. Ở vương quốc trần gian những người cai trị, như các vua quan và hàng qúi tộc, công quan bá tước, các hoàng tử và công chúa, các vị nguyên thủ quốc gia, đều được cung phụng; còn ở trong Vương Quốc của Người, dấu của qúi phái lại là việc phục vụ và hầu hạ.
"Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." (Mc 10:42-44).
Trong Vương Quốc của Chúa thì những người thấp hèn nhất và khiêm tốn nhất sẽ là những người cao trọng và được tôn vinh nhất. Cho dù Người coi các Môn Đệ như những ông vua, nhưng họ chỉ tạo được các quyền đó do bởi trở nên những người thấp hèn nhất trong mọi người.
Nhưng Chúa Cứu Chuộc không chỉ đơn giản trao cho họ một huấn thị đạo đức luân lý mà không hướng họ tới đời Sống của Chính Người, như một tấm gương khiêm tốn mà Người muốn nhìn thấy ở nơi họ. Tất cả sự thật nằm ở việc Người đến không để được phục vụ nhưng là để phục vụ. Thực vậy, Người đã nói rằng Người là Vua và Người có một Vương Quốc; nhưng Vương Quốc này sẽ đạt được trong một cách thức khác hơn là cách mà các quan chức trần thế thu tóm quyền lực của họ. Người đã giới thiệu quan hệ trực tiếp giữa việc tự hiến thân chịu chết của Người và triều đại thiêng liêng mà cái chết của Người mang lại.
Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." (Mc 10:45).
Ở đây cũng như ở chỗ khác, Chúa đã nói về việc Người đến trần gian là để cho thấy xuất xứ của Người không phải là bởi từ lúc sinh ra theo cách nhân loại. Người đã khởi đầu sứ vụ phục vụ của Người từ xa trước khi người ta trông thấy Người phục vụ trong cảm thông và thương xót. Việc phục vụ của Người đã bắt đầu từ lúc Người tự trút bỏ vinh quang trên trời và mặc lấy thân xác phàm nhân trong lòng của Mẹ Maria.
Mục đích Người đến trần gian là để làm của lễ đền bù và cứu chuộc. Nếu Người chỉ đơn thuần là con trai của một bác thợ mộc, thì thật lố bịch để nói là Người đến để phục vụ. Bởi vì đương nhiên vai vế đầy tớ sẽ là lẽ thường và được chấp nhận trong giai cấp lao động đó; nhưng để một vị Vua trở nên một đầy tớ, vì Thiên Chúa trở nên người, thì không còn là tự kiêu nhưng là khiêm tốn. Có của lễ đền bù để cứu chuộc và của lễ đó là cái chết; vì “giá đền tội là sự chết.” Của đền bù sẽ vô nghĩa nếu nhân loại không ở trong nợ nần. Ví dụ như một người đang ngồi trên bờ đá ung dung câu cá trong mùa hè, bỗng dưng thấy có một người khác nhẩy xuống sông từ bờ đá ngay trước mặt, khi ông ta nhẩy xuống nước lần thứ ba giả đò chết đuối và la hét gọi người đang ngồi trên bờ đá và kêu lên:
Không có tình yêu nào lớn hơn là tình yêu của người hiến mạng sống mình cho bạn hữu của họ (Ga 15:31).
Diễn tiến toàn bối cảnh rất khó hiểu bởi vì người ngồi trên bờ đá nhẩy xuống nước không trong tình trạng nguy hiểm, do đó, không cần cứu. Nhưng giả như người đó lỡ bị té ngã xuống nước và đang lâm nguy chết đuối, rồi người kia hy sinh mạng sống nhẩy xuống cứu vớt ông ta thì cái chết của người đó có ý nghĩa đáng kể. Nếu tính con người không sa ngã phạm tội, thì cái chết của Đức Kitô thật vô nghĩa; nếu không có sự nô lệ trong tội, thì chẳng cần nói đến cái giá phải trả để chuộc lại.
Nhiều người không nhận trách nhiệm cho những lỗi lầm và sai phạm tập thể. Ví dụ như khi có một vụ bê bối nào của cơ quan nhà nước, các cá nhân của cơ quan thường chối trách nhiệm liên can. Người càng có tội thì thường hay chối mạnh hơn là họ không có liên quan đến những người gây nên tội lụy. Họ như quan niệm trách nhiệm của họ thay đổi theo với tỉ lệ của tội. Họ lý luận là vì họ không có trách nhiệm cho sai lầm của xã hội, cho nên họ không có liên can.
Thực tế lại trái ngược nơi những người vô tội nhất. Người càng vô tội thì họ lại càng cảm thấy có liên can trách nhiệm và nhận thức về lỗi lầm tập thể. Một người tốt cảm thấy thế giới không tốt như chúng ta đang thấy là bởi vì một cách nào đó là do họ chưa tốt đủ. Người càng tinh tế bén nhậy trong luân lý bao nhiêu thì càng thấy cảm thương hơn đối với những người đau khổ nhọc nhằn. Điều này có thể trở nên càng sâu đậm đến nỗi sự đau khổ của người khác được trực tiếp cảm nhận thấy như là nỗi đau nơi bản thân họ. Người duy nhất có đôi mắt ở thế gian sẽ muốn làm cái gậy cho người mù. Người duy nhất khỏe mạnh trên đời sẽ muốn phục vụ người đau yếu.
Cái đúng với đau khổ thể lý thì cũng đúng với sự xấu xa luân lý. Vì vậy nên Đức Kitô vô tội muốn lãnh lấy phần yếu đau tật nguyền của thế giới. Như người có sức khỏe thì phục vụ người đau yếu hữu hiệu hơn, thì người càng vô tội hơn bao nhiêu càng có thể đền bù tội lỗi của người khác khá hơn bấy nhiêu. Người yêu, nếu có thể, sẽ chịu đau khổ cho người họ thương yêu. Thiên Chúa nhận lấy sự yếu đau luân lý của thế gian như là của chính Người. Xuống làm người, Người muốn chia sẻ ở với họ; Là Chúa Người có thể cứu vớt họ.
Can-vê, Người nói với các Môn đệ háo thắng của Người, không phải là một ngãng trở cho các hoạt động của Người, không phải là thảm kịch hay là sự hư hỏng qúa sớm cho kế hoạch của Người, không là màn kết tủi nhục mà những lực lượng thù địch muốn áp đặt lên Người. Việc hiến dâng mạng sống của Người sẽ đưa Người ra khỏi cái khung mẫu tử đạo vì sự công chính, và của các nhà yêu nước vì những lý do vinh dự trần thế. Mục đích của đời Người, như Người đã nói, là để trả giá cứu chuộc, để giải thoát những người nô lệ cho tội lỗi; đây là một đòi buộc của Thiên Chúa ủy thác nơi Người khi Người đến trần gian. Cái chết của Người là giá cứu chuộc đền bù cho tội lỗi. Nếu loài người chỉ sống trong lầm lạc thì Người có thể là ông Thầy giáo được bao bọc bởi những tiện nghi của đời sống, và sau khi đã dạy hết những lý thuyết về sự đau khổ để chữa sai, Người có thể nằm chết êm ái trên chiếc giường nệm. Nhưng rồi Người sẽ chẳng để lại thông điệp nào khác hơn là cái ký hiệu vâng lời. Nhưng nếu loài người ở trong tội, Người phải là Đấng Cứu Chuộc và thông điệp của người là “Hãy theo Ta,” để chia sẻ hoa trái của ơn Cứu Chuộc.