Thế hệ nào cũng có một truyền thống vàng son vẻ vang trong qúa khứ. Lịch sử của dân Do Thái nói về việc sa ngã làm mất trạng thái vô tội và hạnh phúc bởi việc một người nữ dụ dỗ một người đàn ông. Nếu một người nữ đã có vai trò quan trọng trong việc làm hư hỏng nhân loại như thế thì không lẽ người phụ nữ lại chẳng đóng vai quan trọng trong việc khôi phục lại nhân loại hay sao? Và nếu Thiên Đường lúc khai mở đã bị mất trong bối cảnh hôn phối thứ nhất giữa người nam và người nữ thì chẳng lẽ Thiên Đường mới lại không được cử hành trong bối cảnh hôn phối giữa Thiên Chúa và con người hay sao?
Đến thời viên mãn một vị Thiên Thần của ánh sáng đã từ Ngai Ánh Sáng cao cả nhất đến với một trinh nữ đang quì gối nguyện cầu, để xin cô sẵn lòng hiến cho Thiên Chúa một phần xương thịt của mình. Cô trả lời là cô “không biết đến người nam” và, do đó, cô không thể là mẹ của Đấng mà các nước đang đợi trông.
Không thể có con vì không có liên hệ tình dục chung đụng vợ chồng. Người nữ tì này đã nói đúng. Để sanh ra một sự sống mới đòi hỏi phải có tình yêu chung đụng xác thịt nóng bỏng. Nhưng bên cạnh cái đam mê nồng nhiệt của con người cấy trồng sự sống đó còn có sự nồng nhiệt của Thánh Thần không vương đam mê và nặng trầm dục tình hoang loạn, và chính đây là cái đã bao trùm trinh nữ và cấy sinh trong cô đấng “Emmanuen” hay là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Lúc Maria thưa tiếng xin vâng hay “Xin hãy thực hiện” thì một điều kỳ diệu lớn hơn tiếng xin vâng đã xẩy ra trong việc sáng tạo (như lời phán hãy có ánh sáng thì ánh sáng có). Và bây giờ ánh sáng được sáng tạo không phải là vầng thái dương, nhưng là Con Thiên Chúa trong thân xác con người. Bằng tiếng thưa xin vâng, Maria đã đạt trọn vẹn vai trò của người phụ nữ, có nghĩa là người mang những ân huệ của Thiên Chúa đến cho con người. Trong biến cố thụ thai, có sự đón nhận thụ động mà ở đó người nữ bằng lòng trong sự vận chuyển theo trật tự tự nhiên, bằng lòng đón nhận tình yêu của người nam khi họ chấp nhận nó, và cũng như thế khi Maria xin vâng đối với Thiên Chúa lúc cô đón nhận Thánh Thần.
Trẻ nhỏ được sinh vào trần gian không luôn luôn là do kết qủa tình yêu của một người nam và một người nữ. Cho dù tình yêu giữa hai người có chủ ý, hoa trái tình yêu của họ, đó là đứa con, không luôn luôn được chủ ý giống như tình yêu của họ cho nhau. Có một yếu tố khác không vững lắm trong tình yêu con người. Cha mẹ không biết đứa con mình sinh ra sẽ là con trai hay con gái, hay giờ nào con họ sẽ ra chào đời, bởi vì việc thụ thai ẩn khuất đâu đó trong một đêm của tình yêu. Họ đón nhận con cái lúc sau đó và yêu thương chúng. Nhưng trong ngày Truyền Tin, Người Con không phải là được chấp nhận ở trong cách không biết; thai nhi đó được chủ tâm theo ý muốn. Đã có sự hợp tác giữa một người phụ nữ và Tình Yêu của Chúa Thánh Thần. Sự chấp thuận đã được kiện toàn trong tiếng thưa “xin vâng.” Sự chấp thuận trong thể lý được hoàn toàn tự do trong lời xin vâng đó. Những người mẹ khác trở nên mẹ khi họ nhận ra sự thay đổi trong bụng dạ của họ. Maria trở nên mẹ bởi một sự thay đổi trong tinh thần do Chúa Thánh Thần mang đến. Có thể Maria đã nhận được một cảm nghiệm xuất thần mạnh mẽ hơn cả cảm nghiệm giao hợp tình yêu giữa vợ chồng.
Giống như hành vi sa ngã của nguyên tổ con người là một hành vi tự do, thì hành vi cứu chuộc cũng phải là một hành vi tự do. Điều được gọi là Truyền Tin thực ra là việc Thiên Chúa tìm sự tự do ưng thuận của một thụ tạo để giúp Người nhập thể vào con người.
Giả như người nhạc sĩ trong đoàn hòa tấu tự chọn đánh sai một nốt nhạc. Nhạc trưởng giỏi, bản nhạc đã được chấm và dễ dàng để hòa tấu, nhưng nhạc công vẫn cứ dùng quyền tự do của mình để chơi sai làm vang cung lan tỏa đi. Người nhạc trưởng có thể làm một trong hai việc. Ông có thể yêu cầu mọi người trình tấu lại, hoặc ông có thể làm thinh bỏ cho qua đi. Nói trên căn bản thì làm theo cách nào cũng chẳng thành vấn đề cho lắm, bởi vì cái nốt nhạc đánh sai kia cũng đã đi vào không gian theo tốc độ nhanh cả ngàn tấc một giây. Bao lâu còn thời gian thì bấy lâu còn có những sai sẩy bất thuận trên vũ trụ này.
Có cách nào để tái tạo trật tự trên thế giới không? Nó chỉ có thể làm được bởi một người đến từ muôn thuở đời đời và chặn cái nốt nhạc đang phóng cao bay sai lạc đó lại. Nhưng không phải nó vẫn còn là cái nốt nhạc đánh sai hay sao? Sự bất hòa cung điệu đó chỉ có thể được đánh tan do một điều duy nhất, là khi nốt nhạc đó là nốt nhạc được đánh lên khởi đầu cho một cung điệu mới, vì như thế nó sẽ trở nên bài hoà tấu mới.
Đây chính là điều đã xẩy ra khi Đức Kitô được sinh ra. Trước đó đã có một nốt nhạc đánh sai của trật tự luân lý do bởi một người đã làm băng hoại nhân loại. Thiên Chúa có thể làm thinh bỏ qua, nhưng làm như thế sẽ trái nghịch với bản tính công chính của Người và đó là điều không thể. Do đó, điều Người làm là hỏi một người phụ nữ, đại diện cho nhân loại, tự nguyện hiến cho Người một nhân tính nhờ đó Người có thể khởi đầu một nhân loại mới. Giống như đã có một loại người cũ nơi Adong thì cũng có một loại người mới nơi Đức Ktiô, Đấng là Thiên Chúa làm người qua trung gian tự nguyện của một người mẹ trong nhân loại. Khi sứ thần hiện ra với Maria, Thiên Chúa đã công bố tình yêu này cho một nhân loại mới. Đó là sự khởi đầu của một địa cầu mới, và Maria đã trở nên một “thửa vườn thiên đường mới được chăm sóc do Adong mới.” Như khi ở khu vườn địa đàng đầu tiên, Evà đã mang lại sự đổ vỡ, thì trong khu vườn của lòng bà, Maria đã mang lại ơn cứu chuộc.
Trong suốt chín tháng sống ẩn trong dạ của mẹ, tất cả sự dinh dưỡng từ những miếng bánh, và trái nho mà mẹ đã ăn để cung cấp như một Thánh Thể tự nhiên chuyển qua cho Đấng mà sau này đã tuyên bố Người là Bánh và là Rượu của sự sống. Sau chín tháng qua đi thì nơi xứng đáng cho Người chào đời là Belem, có nghĩa là “lò cung cấp bánh.” Sau này Người nói, “Bánh Chúa ban đến từ trời và đem lại sự sống cho thế gian” (Gioan 6:33).
Khi Con Thiên Chúa đầu thai, sự khiêm hạ của Mẹ Maria đã hiến cho Người đôi tay và đôi chân, con mắt, lỗ tai và một thân xác để chịu đau khổ. Giống như cánh hoa hồng sau khi tiếp nhận sương mát để hấp thụ năng lượng, thì Maria như một bông hồng đón nhận Đấng mà Cựu Ước đã trình bày như giọt sương mai rơi xuống trái đất. Khi Maria sinh hạ Người, Mẹ đã giống như một chén thánh mở ra, và ẵm trong vòng tay một vị thượng khách là chủ tể của thế giới, và nói, “Hãy nhìn coi, Đây là Chiên Thiên Chúa, Đây là Đấng cất đi tội lỗi của trần gian.”
Maria đã được ban cho dấu chỉ để biết là cô sẽ thụ thai bởi Chúa Thánh Thần. Người chị họ là Isave, trong lúc tuổi già mà cũng đã đang mang thai được sáu tháng. Lúc này Maria đang mang trong lòng một bí mật siêu nhiên, quyết định đi thăm, kín đáo hành trình năm bảy ngày đường từ Nazaréth đến thành phố Hebron, theo truyền thuyết gọi là nơi nghỉ trên những nấm mồ của các tổ phụ dân Thiên Chúa – Abraham, Isaac và Jacob. Một cách huyền nhiệm nào đó, bà Isave biết là Maria đang mang trong mình Đấng Cứu Thế nên đã kêu lên:
“Bởi đâu tôi được Mẹ của Chúa đến thăm tôi?” (Lc 1:43).
Đây là lời chào từ mẹ của sứ giả đối với mẹ của vị Vua mà đường lối của Người sẽ được sứ giả đó loan báo. Gioan Tẩy giả, vẫn còn đang ở trong bụng dạ của mẹ, với lời chứng của thân mẫu, đã nhẩy mừng khi Mẹ của đức Kitô đến thăm viếng.
Lời đáp của Maria trước sự đón chào này là bài Ca Ngợi Khen, bài ca ngợi việc Thiên Chúa đã thực hiện nơi cô. Cô đã nhìn lại lịch sử từ đời Abraham; cô đã nhìn ra những việc của Thiên Chúa chuẩn bị cho giây phút đó suốt từ thời này qua thời kia, cô cũng nhìn vào tương lai muôn đời mọi người sẽ gọi cô là người có phước. Đấng Cứu Thế của dân Israel đang đến, và Thiên Chúa chuẩn bị tỏ lộ chính Người ở trần gian trong thân xác hiện hình. Cô cũng tiên báo về những phẩm giá của Người Con sắp được cô sanh ra như Đấng công bình và yêu thương. Bài thi ca được kết bởi lời công bố cách mạng. Người sẽ lên ngôi, truất phế những ai quyền thế kiêu căng và tuyên dương những kẻ từ tốn khiêm cung.
Đấng là Chúa được sinh ra bởi Trinh Nữ Maria là Người duy nhất trên thế gian đã từng có một qúa trình lịch sử trước khi có mặt trên đời. Một tiền lịch sử được học biết không phải từ khoa khảo cổ ở nơi hoang dã hay rừng vắng của thời sơ khai, nhưng là từ cung lòng của Thiên Chúa Cha có từ đời đời. Dù Người xuất thân như một người có gốc từ hang hốc bởi vì Người được sinh ra từ hang đá Belem, sự khởi đầu làm người trong thời gian của Đấng Vô Cùng lại không có khởi đầu như là một Thiên Chúa vô cùng. Nhưng Người chỉ từ từ tỏ bày Thiên Tính vô cùng của Người ra. Đây không phải là vì Người từ từ nhận ra thiên tính của mình; nhưng vì Người có ý từ từ tỏ bày mục đích việc Người đến.
Thánh Gioan ngay từ khởi đầu tin mừng đã trình bày tính tiền lịch sử của bản tính Con Thiên Chúa nơi Người:
Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, Và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. (Gioan 1:1-3).
“Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.” Bất cứ điều gì trên thế gian này đều được tạo thành theo ý định của Thiên Chúa, bởi vì tất cả mọi cái phát nguồn từ tư định của Thiên Chúa. Mọi con chim, mọi bông hoa nở, mọi cây thảo mộc đều được dựng nên từ ý tưởng có trong tâm ý của Thiên Chúa. Các triết gia Hy Lạp coi đó là ý tưởng trừu tượng. Bây giờ, Ý Tưởng hay Ngôi Lời được tỏ bày trong cách nhân vị riêng. Sự Khôn Ngoan được mặc lấy nhân vị. Trước khi mặc lấy sự hiện hữu trong thân xác ở trần gian, Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa từ đời đời, là Sự Khôn Ngoan, là ý nghĩ của Chúa Cha. Sự hiện hữu của Người ở trần gian, Người là Ý Nghĩ hay là Ngôi Lời của Chúa Cha nói với loài người. Lời nói của con người thì tan biến đi khi chúng được sáng tác và phát ra, nhưng Lời Nói của Thiên Chúa thì được phát ra từ đời đời và không bao giờ ngừng lại. Bởi do Lời của Người, Thiên Chúa Cha nói ra tất cả những gì Người hiểu, những gì Người biết. Như trí thông minh đối thoại với chính nó trong suy nghĩ riêng, thấy và biết thế gian qua suy nghĩ của nó, thì Thiên Chúa Cha cũng thấy chính mình, như phản chiếu trong gương, chính Ngôi Lời của Người. Trí tuệ hữu hạn của con người cần nhiều lời để diễn tả các ý tưởng, nhưng Thiên Chúa chỉ nói một Lần đủ cho tất cả trong Người – chỉ một Lời duy nhất đi tới tận thâm cung của mọi loài biết được và có thể biết được. Trong Ngôi Lời của Thiên Chúa có tàng ẩn tất cả kho tàng của Khôn Ngoan, tất cả những bí mật của khoa học, tất cả những sáng tác của nghệ thuật, tất cả mọi kiến thức của nhân loại. Nhưng kiến thức này khi so với Ngôi Lời, thì cũng chỉ như một từ ngữ yếu ớt mỏng dòn.
Từ sự vô hạn muôn đời, Ngôi Lời đã ở nơi Thiên Chúa. Nhưng có một điểm trong thời gian Ngôi Lời đã chưa được nói ra từ Chúa Cha, giống như khi một người có ý nghĩ trong trí của họ mà chưa đến lúc nói ra. Như mặt trời không lúc nào là không có tia sáng, thì Chúa Cha cũng không lúc nào là không có Chúa Con; hay như một người thông minh mà lại không bao giờ không có tư tưởng, do đó ở mức độ muôn đời, trí khôn của Thiên Chúa không bao giờ là không có Ngôi Lời. Thiên Chúa không ở trong đời đời của trạng thái hoàn toàn bất động. Người có Ngôi Lời đồng vị ở với Người.
Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa.
Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.
Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người,
thì chẳng có gì được tạo thành.
Điều đã được tạo thành
ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,
và bóng tối đã không diệt được ánh sáng
Tất cả mọi thứ trên đời thuộc không gian và thời gian đều hiện diện do bởi Uy Quyền Tạo dựng của Thiên Chúa. Các vật thể không vĩnh viễn bất tận; vũ trụ có Vị Thông Minh đứng ở đàng sau, một nhà kiến trúc, một người Xây Dựng và một Đấng Bảo Trì. Tạo vật là công trình của Thiên Chúa. Nhà điêu khắc đục đẽo tảng đá, họa sỹ vẽ trên tấm vải, thợ máy làm việc với các vật liệu, nhưng chẳng ai trong họ có thể tự chế ra các vật liệu. Họ dùng những chất thể, nhiên liệu hoặc vật liệu đã có sẵn để biến chế chứ không phải là họ tạo dựng nên. Việc tạo dựng chỉ dành riêng cho Thiên Chúa mà thôi.
Thiên Chúa đã viết tên của Người trong tâm hồn của tất cả mọi người.
Luận lý và lương tâm là chính Thiên Chúa ở trong chúng ta theo trật tự tự nhiên. Các thánh giáo phụ đã nói rất thuyết phục về tính khôn ngoan của Platô và Aristole như là sự vô thức Kitô trong mỗi người chúng ta. Con người giống như những cuốn sách do Thiên Chúa là nhà xuất bản, và nếu không có gì được viết trong đó thì ít nhất Tên của Tác Giả đã được khắc ghi trong tựa đề của cuốn sách. Thiên Chúa giống như là nét mực nước trên trang giấy, có thể đã được viết lên mà không bị xóa mất đi.