Bây giờ chúng ta hỏi, điều gì đã xẩy ra với Giuđa? Chỉ mình Giuđa biết tìm đến nơi Chúa Giêsu ở trong đêm tối. Các quân lính không biết, do đó họ cần được cho những dấu hiệu để nhận diện. Đức Kitô đã bị nộp vào tay quân thù từ người bên trong. Cái nguy hại nhất xẩy ra không phải luôn luôn là từ những kẻ thù nghịch, nhưng từ những người đã dầm sương dãi nắng trong những sinh hoạt thánh thiện với Người. Thường thì chính sự thất bại của những người từ bên trong tạo cơ hội cho kẻ thù từ bên ngoài xâm nhập vào. Kẻ thù sẽ thực hiện công việc đóng đinh đổ máu, nhưng khi những người đã tin và bị mất niềm tin, vội mong bào chữa cho lương tâm của họ bằng cách phá bỏ nền móng đạo đức luân lý khiến họ phạm tội xấu xa hơn.
Oán ghét của Giuđa phản lại Chúa là sự trái nghịch khác biệt giữa tội của y và nhân đức của Thày Chí Thánh. Iago nói về Cassio: “Anh ta có cái đẹp trong cuộc đời của anh khiến tôi thấy mình xấu.” Cái chán ghét của Giuđa với chính bản thân hắn được đổ sang cho Đấng đã làm cho y cảm thấy bất ổn vì sự Tốt Lành nơi Người. Oán ghét chống Thiên Chúa không phải luôn luôn là việc không có lòng tin, nhưng thường xẩy ra là từ ảnh hưởng của việc chống lại niềm tin. Lương tâm, Đức Kitô, và ơn đức tin làm cho những người xấu cảm thấy bất ổn trong tội lỗi của họ. Họ cảm thấy rằng nếu họ có thể xua đuổi Đức Kitô ra khỏi thế gian này, thì họ sẽ được tự do không bị ngăn cản bởi đạo đức luân lý nữa. Họ quên rằng luật tự nhiên ở trong họ và lương tâm của họ làm cho họ cảm thấy như thế. Không thể xua đuổi Thiên Chúa ra khỏi thiên đàng, họ lại tìm xua đuổi những người đại diện cho Chúa ra khỏi trần gian. Trong lãnh vực thấp hơn, đó là lý do nhiều người gớm ghét nhân đức – bởi vì nó làm cho nết xấu cảm thấy không được yên ổn thoải mái. Một diện mạo trong sạch là một lời phán xét đối với nó. Giuđa đã hăng say cộng tác trong mưu toan của kẻ thù hơn là hắn tham gia vào kế hoạch của Chúa. Khi con người xa rời Đức Kitô, họ tìm danh tiếng cho mình bằng cách đi qúa trớn.
Sự phản bội xẩy ra với một cái hôn. Khi sự xấu xa tiêu hủy nhân đức và khi con người muốn đóng đinh Con Thiên Chúa, lúc ấy cần có một cái mở đầu cho hành động xấu bởi một vài dấu chỉ thân thiện. Giuđa muốn khuyến khích và chối bỏ Thiên Chúa bằng cùng một môi một miệng. Chỉ có một lời nói đáp lại cái hôn đó: “Bạn.” Đó là lần sau cùng Chúa nói với Giuđa. Lúc đó y chưa phải là kẻ phản bội nhưng vẫn là một người bạn. Y đã có quyền lợi với con chiên bị trói, nhưng y đã từ chối.
Bấy giờ, Giu-đa, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận. Hắn đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ mục mà nói: "Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan." (Mt 27:3)
Mặc dù trong tiếng Anh chúng ta thấy cả Phêrô và Giuđa đều hối hận, nhưng tiếng Hy Lạp đã dùng trong bản gốc có từ ngữ khác cho Giuđa và cho Phêrô. Từ ngữ dùng liên quan đến Giuđa chỉ có ý diễn tả sự thay đổi trong cảm xúc, một sự hối tiếc về hậu quả, một ước ao đừng xẩy ra cho sự việc đã xẩy ra. Sự hối tiếc này không xin được ơn tha thứ, vì ngay cả ma qủi trong hỏa ngục cũng hối tiếc về hậu quả do tội kiêu ngạo của chúng. Lý do cho hành động phản bội Đức Kitô của y bây giờ như qúa xấu xa đến nỗi không thể tưởng nổi. Trước khi phạm tội, ma qủi “đã bỏ y một thời gian,” để cho Giuđa có thể hối tiếc về hành động của y và để hoàn trả lại số tiền. Nhưng sau đó ma qủi quay trở lại đẩy y đến thất vọng.
Bản án dành cho Chúa có hai ảnh hưởng: một là trên Giuđa và hai là trên các thầy tư tế của Toàn Án Tối Cao. Ảnh hưởng trên Giuđa, nó gây ra cái trói buộc của tội lỗi qua sự đau đớn cắn rứt trong lương tâm y. Ba mươi đồng bạc trong túi đã đè nặng trên con người y; y đã chạy vào đền thờ, lấy tiền ra khỏi túi và ném tung toé trên nền của đền thánh. Vứt bỏ những lợi lộc kiếm được từ việc làm phản bội là dấu chỉ cho thấy y không giầu có hơn từ cái y đã kiếm được, và mãi mãi túng nghèo vì cách bất chính mà y đã làm để kiếm được nó.
Chưa hề có ai chối bỏ Đức Kitô hay bán Người đi để đổi lấy bất cứ những thú vui hay lợi lộc tạm bợ nào, mà không nhận thấy rằng họ đã dại dột trao đổi Người cách hớ hênh qúa rẻ so với giá trị của Người. Giuđa có vẻ như kiếm được nhiều lợi nhuận khi y điều đình giá cả. Sau đó, y lại đem tiền đến đền thờ và vứt bỏ lăn chạy lẻng kẻng trên nền đá, bởi vì y không còn muốn giữ cái mà y đã tráo đổi được. Y đã lừa dối chính mình. Thú vui như hoa quả của tội lỗi đem lại không bao giờ bù đắp được cho tình trạng mất ơn thánh sủng. Tiền bạc lúc này chẳng tốt lành gì ngoài trừ mua được một miếng đất máu.
Những người ký hiệp đồng với y trong tội lỗi bây giờ muốn dũ tay hủy trách nhiệm cho hành động chung tay của họ. Một trong những hình phạt của tội đồng lõa là cùng chịu tội; bất cứ khi nào người ta đồng tình hợp tác làm điều ác hại một người tốt, họ luôn luôn đi đến cái kết là chia rẽ với nhau. Tuy nhiên, trong trường hợp của Giuđa, chúng ta lại thấy trái ngược lại với những đặc điểm của hành động thông thường xấu xa đó. Sai lỗi càng to bao nhiêu thì họ càng khó nhìn nhận trách nhiệm bấy nhiêu. Những con người ác đức, để tỏ ra vô tội, họ đổ lỗi cho những người họ đã ám hại. Nếu có lý do để bào chữa cho cái tội của Giuđa, thì chắc chắn y đã chớp lấy cơ hội và thổi phồng lên để che đậy cho sự bội bạc và hổ thẹn của y. Nhưng chính Giuđa đã tuyên bố Chúa vô tội. Một con người có lần đã phàn nàn về việc Maria Mađalêna phung phí dầu thơm bây giờ lại phung phí ba mươi đồng bạc bằng việc ném bỏ chúng đi. Chả nhẽ những đồng tiền đó không thể dùng để giúp cho những người nghèo ư? Giuđa chẳng còn nghĩ đến điều đó. Những đồng tiềm kim loại nằm rơi trên nền của đền thờ mà Giuđa đã ném bỏ. Các tư tế ghét những đồng tiền ấy và ghét cả Giuđa, một khí cụ bạc phước. Y muốn quy trách nhiệm cho Toà Án Tối Cao; họ lại ném trả trước mặt y. Không hề xưng thú với Thầy Chí Thánh, y đã tự phạt chính mình. Khi Cain hỏi, “Tôi là người canh giữ em tôi hay sao?” bởi thế họ đã coi khinh người thông đồng với họ.
Nhưng những đồng tiền đó không được bỏ lại ở nền nhà của đền thờ, do đó các tư tế thu gom chúng lại và nói:
"Không được phép bỏ vào quỹ Đền Thờ, vì đây là giá máu." Sau khi bàn định với nhau, họ dùng tiền đó tậu "Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm" để làm nơi chôn cất khách ngoại kiều. (Mt 27:6-8)
Những người đồng mưu với Giuđa đã muốn bàn luận với nhau về số tiền đó, nhưng họ lại không muốn bàn gì về con người vô tội kia. Đáng lẽ họ phải vui mừng về sự thú nhận của Giuđa, nhưng họ đã bỏ qua và coi y như một người vô dụng. Y không còn cần dùng đến nữa; những đồng tiền kia cũng chung số phận, do đó chúng được dùng để mua miếng đất gọi là đất máu.
Giuđa đã hối tiếc cho mình, chứ không vì cho Chúa. Y đã kinh tởm với những hậu quả vì tội của y, nhưng không kinh tởm với tội lỗi. Tội gì cũng được tha thứ ngoại trừ cái tội từ chối không xin ơn tha thứ, như sự sống có thể tha thứ mọi cái trừ cái chết. Hối tiếc của y chỉ là cái giận ghét bản thân, và giận ghét bản thân là tự sát. Ghét bản thân là khởi đầu cho việc hành quyết. Nó chỉ được khen ngợi khi có sự tương quan đến yêu mến Thiên Chúa. Hối tiếc với chính mình thì chưa đủ. Vì như thế lương tâm nói nhỏ nhất khi chính ra là nó phải nó to tiếng nhất. Nó giống như ánh đèn bị tắt trong đêm tối.
Khi một người ghét bản thân mình vì điều họ đã làm mà không hối cải quay về với Thiên Chúa, thì họ đôi khi có đấm ngực nhưng chỉ như là để móc vứt bỏ tội lỗi ra. Có cả thế giới khác biệt giữa cái đấm ngực tự khinh ghét mình và cái đấm ngực với lòng thống hối “mea culpa” nơi một người muốn xin ơn tha thứ. Đôi khi cái tự ghét bản thân có thể trở nên rất căng như muốn lấy đi cả mạng sống của một người, dẫn đến việc tự tử. Mặc dù chết là một trong những hình phạt do tội nguyên tổ và là cái mà ai cũng sợ, tuy nhiên cũng có một số người chạy vào vòng tay của nó. Một cảnh báo của lương tâm đã đến với Giuđa trước khi phạm tội, nhưng nanh vuốt của lương tâm lại theo sau, và nó qúa lớn đến nỗi y không thể chịu nổi. Y đi ra thung lũng Cedron, một thung lũng có tiếng là nơi đầy ma quái. Trong khu vực với những tảng đá và ở giữa những lùm cây bủa vây chung quanh, y đã qúa kinh tởm với bản thân đến nỗi y đã tự giải thoát chính mình. Tất cả cảnh vật chung quanh dường như nói với y về định mệnh và cùng đích dành cho y. Dường như chẳng cái gì ghê tởm hơn trước mắt y cho bằng nóc của đền thờ, là cái nhắc cho y nhớ đến Đền Thờ Của Thiên Chúa mà y đã bán đứng; mỗi thân cây dường như là nơi treo cổ mà y đã làm cho người vô tội phải đổ máu; mỗi cành cây là như những ngón tay xỉa xói nguyền rủa; ngọn đồi nơi y đứng nhìn qua đồi Can-vê, nơi mà Đấng y đã nộp để chịu án tử nối kết trời với đất; nhưng lúc này y muốn phân cách chúng ra với hết sức mà y có thể. Quăng chiếc giây thừng lên cành cây, y tự treo cổ và ruột gan vỡ tung. Thiên Chúa có thể bị đem đi bán, nhưng Người không thể bị mua chuộc. Giuđa bán Người, nhưng những kẻ hợp tác làm ác không thể mua được Người, vì Người sẽ tái xuất hiện trong vinh quang Phục Sinh.
Một đường ranh song song rất thú vị có thể thấy giữa Phêrô và Giuđa. Có đôi nét tương đồng, và lại rất khác biệt. Thứ nhất, Chúa của chúng ta đã gọi cả hai là “ma qủi.” Người đã gọi Phêrô là “Satan” khi ông ngăn cản Người lúc Người nói là Người sẽ bị đóng đinh; Người gọi Giuđa là qủi khi Người hứa ban Bánh Hằng Sống. Thứ hai, Người đã cảnh báo cho cả hai người là họ sẽ ngã. Phêrô thề thốt nói rằng dù cho những người khác có bỏ Thầy, ông không bỏ. Trong khi ông được nói cho biết là trong đêm đó, trước khi gà gáy, Phêrô sẽ chối Thầy ba lần. Giuđa, đến lượt y, đã được cảnh báo khi được trao cho miếng bánh đã được cùng chấm chung. Y cũng được nói cho biết khi trả lời câu hỏi của y, chính y là kẻ phản bội. Thứ ba, cả hai đều chối Chúa: Phêrô trước mặt những người đầy tớ gái trong đêm xét xử; Giuđa trong vườn khi hắn trao nộp Chúa cho quân lính. Thứ tư, Chúa muốn cứu cả hai: Phêrô qua cái nhìn, và Giuđa bằng việc gọi y là “Bạn.” Thứ năm, cả hai đều hối hận: Phêrô đi ra ngoài khóc lóc thảm thiết; Giuđa hối hận bằng cách đem những đồng tiền bạc đi trả lại và xác nhận Chúa vô tội.
Như vậy tại sao một người được đứng đầu trong danh sách, còn người kia thì lại ở cuối danh sách? Bởi vì Phêrô hối hận vì Chúa còn Giuđa hối hận vì bản thân y. Sự khác biệt một trời một vực như giữa những liên quan đến Thiên Chúa và liên quan đến bản thân. Sự khác biệt một trời một vực như giữa Thập Giá với chiếc ghế ngồi ở phòng trị liệu tâm lý. Giuđa thú nhận là hắn đã “phản bội làm đổ máu người vô tội,” nhưng không ước mong được tắm rửa trong đó. Phêrô biết ông đã phạm tội và đi tìm ơn cứu chuộc; Giuđa biết y đã sai và chạy tìm lối thoát – là người thứ nhất trong đoàn quân đảo ngũ trốn chạy khỏi Thập Giá. Ơn tha thứ của Thiên Chúa có đó nhưng chẳng bao giờ lấy đi sự tự do của con người. Người ta thắc mắc không hiểu Giuđa, khi đứng dưới gốc cây đưa hắn đến cái chết, có đưa mắt nhìn chung quanh thung lũng để nhìn xem cái cây có thể mang lại cho y sự sống. Trong sự khác biệt giữa hối hận vì Chúa và hối hận vì mình của Phêrô và Giuđa này, Thánh Phaolô nhận định bằng những lời như sau:
Quả vậy, nỗi ưu phiền theo ý Thiên Chúa làm cho chúng ta hối cải để được cứu độ: đó là điều không bao giờ phải hối tiếc; còn nỗi ưu phiền theo kiểu thế gian thì gây ra sự chết. (2Cor 7:10)
Thảm cảnh cuộc đời Giuđa là hắn có thể trở thành ông Thánh Giuđa mà đã bỏ mất cơ hội.