Năm Chúa Giêsu chào đời, Caesar Augustus là một chuyên gia cầm sổ hộ khẩu dân số thế giới, cai trị ở vùng Tiber. Thuộc quyền ông là một bản đồ trải rộng thuộc lãnh vực cai trị của đế quốc Roma trên toàn cầu (Orbis Terarum, Imperius Romanum). Ông hoạch định việc kiểm tra dân số khắp thế giới, bởi vì mọi quốc gia trên thế giới là chư hầu của Roma. Chỉ có một thủ đô trên thế giới là Roma, và chỉ có một ngôn ngữ là Latinh. Chỉ có một lãnh đạo tối cao là Caesar. Lệnh trát ban ra cho tất cả các căn cứ, các thị trấn, các viên chỉ huy, và thống đốc: Tất cả mọi người dân thuộc quyền cai trị của Roma phải đăng ký ở nơi thành phố địa phương là nơi họ sinh của mình. Ở ngoại ô biên giới đế quốc là làng Nazareth, các quân lính dán các tờ rơi truyền lệnh cho tất cả thần dân phải đi về quê quán gốc của họ để đăng ký.
Giuse, người thợ xây, một nhân vật lu mờ thuộc dòng tộc của vua Đavid, đã bắt buộc phải trở về quê quán ở Bêlem, thành phố của Đavid, để đăng ký. Theo sắc lệnh, Maria và Giuse khởi hành từ Nazareth đi Bêlem. Bêlem nằm khoảng năm dặm ngoài thành Giêrusalem. Cách năm trăm năm về trước, tiên tri Micheas đã nói về ngôi làng nhỏ:
Bêlem thuộc đất Giuda, người không nhỏ bé trong mắt của các quan chức Giuda; vì từ nơi ngươi sẽ sinh ra một nhà lãnh đạo chăn dắt đàn chiên Israel dân của ta (Mt 2:6).
Giuse tràn đầy hy vọng khi bước vào thành phố của gia tộc ông và tin là ông sẽ không khó khăn tìm được chỗ trọ cho Maria, nhất là trong hoàn cảnh mang thai lúc đó. Giuse đi từ căn nhà trọ này tới căn nhà trọ khác nhưng nhà nào cũng đều đã chật kín. Ông đã uổng công tìm kiếm để có được một nơi cho Đấng là chủ của cả trời và đất, được ra chào đời. Có thể nào là Đấng Sáng Tạo lại không tìm được một chỗ ở trong công trình tạo dựng của Người? Giuse đi về hướng đỉnh đồi có ngọn đèn le lói treo ngang cổng. Đây có thể là một nhà trọ ở ngoại ô. Hy vọng ở đó ông có thể tìm được chỗ trọ. Nhà trọ có phòng cho những người lính của Roma, những người đã đối xử tàn nhẫn với người Do Thái; có phòng cho những thiếu nữ con của các thương gia từ Đông phương; có phòng cho những người ăn mặc lụa là và quí phái từ các cung điện vua chúa; thật ra là họ có phòng cho tất cả những ai có tiền có bạc trả cho chủ nhà trọ. Nhưng họ đã không có phòng cho Đấng đến để trở nên quán trọ cho tất cả những tâm hồn không nhà không cửa trên toàn thế giới. Đấng đã được sinh ra không có mẹ ở trời và không có cha ở dương thế.
Mọi đứa trẻ khác sinh ra trên đời, các bạn hữu có thể nói nó giống mẹ nó. Đây là trường hợp đầu tiên để ai cũng có thể nói mẹ của Hài Nhi lại giống Hài Nhi. Đây là cái đẹp mỹ miều trái lẽ là Con lại là Đấng dựng nên Mẹ của mình. Mẹ lại cũng chính là một người con. Nó cũng là lần đầu tiên trong lịch sử thế giới để ai cũng có thể dám nghĩ Thiên Đường ở một chỗ khác hơn là chỉ ở đâu đó trên cao. Khi Hài Nhi nằm trong vòng tay ôm ẵm của mẹ, Maria có thể nhìn xuống thấy Thiên Đường.
Trong một nơi tanh hôi nhất trần gian, một hang nghỉ ngơi của súc vật, Đấng Tinh Khiết được sinh ra. Người được sanh ra giữa loài thú thì chính Đấng đó sau này bị giết bởi con người hành xử như loài thú. Đấng đã nhận mình là “Bánh hằng sống bởi trời” đã được đặt nằm trong một cái máng đồ ăn cho thú ăn. Nhiều thế kỉ trước đó, dân Do Thái đã thờ bò vàng, và người Hy Lạp thờ con lừa. Con người cúi đầu thờ lạy những con vật như thờ lạy trước Thiên Chúa. Ở Bê-lem, con bò con lừa bây giờ hiện diện ngây thơ sửa lại, cúi đầu thờ lậy trước Thiên Chúa của chúng.
Không còn phòng trong quán trọ, nhưng có chỗ trong hang súc vật trú ngụ ngoài đồng. Quán trọ là nơi qui tụ của công luận, là tâm điểm của những chia sẻ trần thế, là nơi hẹn hò gặp gỡ thế tục, là nơi qui tụ hội họp của những người nổi tiếng và thành đạt ở đời. Nhưng hang đá ngoài đồng là nơi nghỉ chân của những người nghèo khó, vô gia cư, vô thừa nhận. Thế giới có thể đã chờ đợi thấy Con Thiên Chúa sinh ra trong một quán trọ. Hang đá ngoài đồng ruộng là nơi sau cùng ở thế gian khi người ta nghĩ đến việc đi tìm Người. Thiên Chúa luôn ở nơi mà người ta ít nghĩ đến nhất khi họ đi tìm Người.
Một người bình thường không thể nghĩ rằng một Đấng có quyền uy dựng nên mặt trời sưởi ấm trái đất mà lại có ngày Đấng đó phải cần đến hơi thở của bò lừa để giữ cho Người khỏi giá rét. Trong ngôn ngữ của Thánh Kinh, Người là chủ tể các vì sao sáng mà lại phải làm theo lệnh kiểm kê dân số của một ông vua trần thế. Người là Đấng mặc đẹp cho các bông hoa ngoài đồng cỏ mà lại phải trần truồng; Là Đấng dựng lên các tinh tú trong vũ trụ hoàn cầu bằng đôi tay quyền lực mà một ngày đôi tay nhỏ bé của Người qúa ngắn để giơ ra chạm tới mấy cái đầu to tướng của những con vặt nằm kề bên. Đôi chân của Người đã đạp trên các đồi cao núi cả muôn trùng mà một ngày lại qúa yếu ớt để phải tập bước đi từng bước. Là Ngôi Lời hằng có mà không biết nói; là Đấng vô song mà lại phải cuốn gọn trong tấm khăn tã; là Sự cứu chuộc lại nằm trong máng ăn của chiên bò, nơi mà một con chim con gà có thể dùng làm tổ để đẻ và ấp trứng. Không ai dám nghĩ là Thiên Chúa lại đến trần gian trong tư thế qúa yếu đuối như thế. Đó cũng là lý do nhiều người không nhận ra Người. Thiên Chúa luôn luôn ở nơi mà người ta ít nghĩ đến nhất khi họ đi tìm Người.
Nếu một họa sỹ ở nhà, trong phòng vẽ của ông, vì các bức tranh họa là của ông; nếu nhà điêu khắc ở trong phòng điêu khắc của ông vì các bức tượng là công trình điêu khắc của ông; nếu người trồng nho ở trong vườn nho của ông vì các cây nho đã do công ông trồng cấy chăm nom; nếu một người cha ở nhà với con cái bởi vì chúng là con của ông, thì theo lẽ thế gian, chắc chắn Đấng dựng lên trời đất cũng sẽ ở nơi Người đã dựng nên chúng. Người phải đến ở đó như đến ở trong phòng làm việc hội họa của Người, hay như một người cha trong căn nhà của chính gia đình ông. Nhưng Người là Đấng Tạo Hóa đến với các tạo vật của mình mà lại bị chúng làm lơ. Vì Thiên Chúa đến với dân của Người, nhưng đã không được dân của Người đón nhận. Thiên Chúa đã trở nên vô gia cư nơi chính nhà của Người. Điều đó chỉ có thể có nghĩa trong tâm tư suy nghĩ của người thế: Con trẻ đó không thể là Thiên Chúa. Và đó là lý do họ đã không nhận ra Người. Thiên Chúa luôn luôn ở nơi mà người ta ít nghĩ đến nhất khi họ đi tìm Người.
Thiên Chúa Đấng dựng nên con người, đã được mời đến với tạo vật của Người qua lối cửa sau. Lưu vong ở trần gian, Người được sinh ra nơi dương thế, như một người “hoang dã ăn lông ở lỗ” đầu tiên trong lịch sử. Ở đó Người đã làm rung động các nền móng của trái đất. Bởi vì Người đã sinh ra trong hang, để bước vào hang trông thấy Người, tất cả đều phải cúi mình xuống. Cúi mình xuống là cử chỉ khiêm tốn. Người kiêu căng không chấp nhận cúi mình, và do đó họ mất cơ hội gặp Thiên Chúa. Những người uốn cúi cái tôi xuống và bước vào nhận ra rằng họ không chui vào hang hốc, nhưng là vào một vũ trụ mới, nơi có Hài Nhi ngồi trên gối mẹ, với cả thế giới nằm gọn trên tay Người.
Máng cỏ và cây thập giá là hai thái cực của cuộc đời Đấng Cứu Thế. Người đón nhận máng cỏ bởi vì không còn chỗ dành cho Người trong nhà trọ. Người đón nhận cây Thập Giá bởi vì người ta nói, “Chúng tôi không nhận ông là Vua của chúng tôi.” Bị từ chối khi đến và bị ruồng bỏ lúc ra đi. Người đã được đặt nằm trong cái hang lừa của người xa lạ lúc ban đầu, và cái hang mộ của một người lạ lúc cuối đời. Con bò và con lừa vây quanh cái nôi của Người ở Be-lem; và hai tên trộm cướp được treo cùng với Người trên đồi Canvê. Người được cuốn trong chiếc khăn vải khi chào đời và Người lại cũng được liệm táng với tấm khăn vải trong ngôi mộ lúc lìa đời – bọc trong khăn vải là dấu những giới hạn áp đặt trên Thiên Tính của Người khi Người mang lấy thân xác loài người.
Các mục đồng đang chăm sóc đàn chiên gần đó đã nghe thấy tiếng thiên thần:
“Đây là dấu cho các ngươi: Các ngươi sẽ thấy một con trẻ bọc trong khăn nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12).
Người đã mang Thập Giá của mình rồi – Thập Giá mà một trẻ thơ có thể mang, thập giá của nghèo túng, lưu vong và giới hạn. Ý định dâng hiến của Người đã chiếu tỏa qua thông điệp của các thiên thần hát trên đồi Bêlem:
“Hôm nay trong thành Đavid Đấng Cứu Thế được sinh ra cho các ngươi.” (Lc 2:11).
Tính tham lam đã được thách đố bởi sự nghèo khó của Người, trong khi tính kiêu căng đã được thách thức với sự khiêm hạ của một hang chuồng lừa. Giải khăn của uy quyền Thiên Chúa vô hạn, thường coi như một giá thuế qúa lớn đối với những đầu óc chỉ nghĩ đến quyền lực. Họ không thể hiểu nổi ý tưởng Thiên Chúa hạ mình xuống, hay một người giầu có trở nên nghèo để qua cái nghèo của họ, chúng ta trở nên giầu có. Con người sẽ không có dấu chỉ nào về Thiên Chúa lớn hơn là thiếu vắng quyền lực như họ thấy – một Hài Nhi nói là Người sẽ đến trong đám mây, bây giờ lại được bọc trong khăn của trần gian.
Đấng các thiên thần gọi là “Con Đấng Tối Cao,” đã hạ mình xuống bụi đất, từ nơi chúng ta được sinh ra, nên một với con người yếu đuối mỏng dòn trong mọi lãnh vực, ngoại trừ tội lỗi. Và chính những tấm khăn vải làm dấu chỉ của Người. Nếu Đấng vô hạn đã đến trong tiếng sấm vang trời lở đất thì không phải có dấu chỉ. Không cần dấu chỉ nào trừ khi điều gì đó xẩy ra ngược trái với thiên nhiên. Ánh sao của vầng thái dương không phải là dấu chỉ, nhưng mà nhật thực lại là dấu chỉ (vì nó bất thường). Người nói trong ngày sau hết, khi Người đến sẽ có những điềm báo ở “mặt trời,” có thể là không còn chiếu sáng nữa. Tại Bê-lem Con Thiên Chúa ẩn vào nhật thực, để chỉ người có tinh thần khiêm tốn mới nhận ra Người.
Chỉ có hai loại người nhận ra Hài Nhi; các mục đồng và những người khôn ngoan; một loại thì đơn sơ và một loại thì thông thái hiểu biết; những người nhận là họ chẳng biết gì và những người biết là họ không biết hết mọi sự. Người không được nhận ra bởi một con người chỉ biết một cuốn sách; cũng chẳng bởi những ai nghĩ là họ hiểu biết. Ngay cả Thiên Chúa cũng chẳng có thể nói điều gì với người kiêu ngạo. Chỉ người khiêm tốn mới có thể thấy Thiên Chúa.
Như Caryll Houselander nói, “Bê-lem là biểu tượng ẩn tính của Can-ve giống như hoa tuyết là biểu tượng ẩn tính của vũ trụ.” Tư tưởng này cũng được thi sỹ nói rằng nếu ông biết được tất cả các đặc tính của bông hoa trong khe tường thì ông sẽ biết được “Thiên Chúa và con người là gì.” Các nhà khoa học nói rằng nguyên tử hiểu ở chính nó, là cái mầu nhiệm của thái dương hệ.
Không phải việc chào đời của Người làm thành cái bóng che cuộc đời của Người, và do đó đưa Người đến chỗ chết; hơn thế, cây Thập Giá đã có sẵn đó ngay từ ban đầu, và nó phủ bóng ngược về lúc Người chào đời. Con người hữu hạn có chết, họ đi từ cái được biết, đến cái không biết được và thần phục quyền lực vượt trên khả năng cầm lái của họ; do đó chúng ta có thể nói về những “thảm cảnh” của họ. Nhưng Người đi từ cái biết đến cái được biết, từ lý do cho việc Người đến, là “Giêsu”, hay “Đấng Cứu Chuộc” đến việc kiện toàn sứ vụ đến của Người, đó là cái chết trên Thập Giá. Do đó không có thảm cảnh trong đời sống của Người; vì thảm cảnh áp dụng cho điều xẩy ra mà không biết trước được theo qui trình, không cầm lái điều khiển được và có chết. Đời sống ngày nay thê thảm khi tinh thần tối tăm và tội lỗi không thể tha thứ được. Nhưng đối với Chúa Kitô Hài Đồng thì không có quyền lực vượt ngoài tầm kiểm soát của Người; không lụy phục xiềng xích sự chết mà không thể thoát được, nhưng có biểu tượng ẩn tính, như một hạt nguyên tử, cái máng cỏ vĩ mô tóm lược cây Thập Giá trên đồi Gôn-gô-ta.
Trong mùa Vọng tiên khởi, Người đã nhận lấy danh hiệu “Giêsu”, hay là “Đấng Cứu Chuộc.” Trong mùa Vọng thứ hai Người sẽ nhận lấy danh hiệu “Thẩm Phán.” “Giêsu” không phải là danh hiệu Người đã có trước khi Người mặc lấy phận làm người, danh hiệu ấy nói về cái bản tính người gắn liền với thiên tính của Người; không phải là cái đã có từ đời đời. Một số người nói là “Đức Giêsu dạy” giống như họ nói “Plato dạy,” chứ chẳng bao giờ nghĩ là tên của Người có nghĩa là “Đấng Cứu Chuộc khỏi tội lỗi.” Khi Người nhận danh hiệu này, Can-ve trở thành một phần của chính Người. Bóng của cây Thập Giá phủ trên máng cỏ cũng bao phủ danh tánh của Người. Đây là công việc của Cha Người”, Tất cả những cái khác chỉ là phụ thuộc.
“Ngôi Lời mặc lấy xác phàm.” Thiên tính thánh thiện và tinh tuyền đã nhập thể như một nguyên lý tái thiết dòng dõi A-dong đã bị hư hỏng, mà không bị ảnh hưởng bởi sự hư hỏng. Được sinh ra bởi một trinh nữ, Đức Giêsu Kitô đã hoạt động trong lịch sử nhân loại mà không bị lụy phục trong tình trạng xấu xa của nhân loại.
“Ngôi Lời đã trở thành người phàm và ở giữa chúng ta. Chúng ta thấy vinh quang của Người, vinh quang xứng hợp của Con Chúa Cha, là Người Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Gioan 1:14).
Bê-lem đã trở nên điểm nối kết trời và đất; Thiên Chúa và Người đã gặp ở nơi đó diện đối diện. Bởi việc nhận lấy thân xác con người, Thiên Chúa Cha đã chuẩn bị, Thánh Thần đã nối kết, và Con đã mặc lấy. Đấng thuộc về dòng dõi đời đời trong cung lòng Chúa Cha bây giờ có dòng dõi giới hạn trong thời gian. Đấng có ngày sinh ở Bê-lem đã đến để được sinh vào cung lòng của con người. Lợi ích gì nếu Người được sinh ra cả ngàn lần ở Bê-lem mà không được sinh ra trong lòng của con người?
Tất cả những ai đón nhận Người, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người ban cho họ quyền làm con cái của Thiên Chúa (Gioan 1:12).
Bây giờ con người không cần phải trốn chạy khỏi nhan Thiên Chúa giống như A-dong xưa; vì Thiên Chúa có thể nhìn thấy họ qua nhân tính của Đức Kitô. Đức Kitô đã không có thêm sự hoàn hảo bằng việc mặc thêm phận người, Người cũng chẳng bị mất gì trong bản tính Thiên Chúa khi làm như thế. Quyền lực vô song của Thiên Chúa vẫn ở nơi cánh tay Người, tình yêu vô biên của Thiên Chúa vẫn ở các nhịp đập trong trái tim nhân tính của Người, và tình thương không thể đo lường của Người đối với các tội nhân vẫn ở trong ánh mắt của Người. Thiên Chúa bây giờ được tỏ hiện trong xác thể; điều này được gọi là việc nhập thể. Tất cả những ưu phẩm của Thiên Chúa: quyền lực, tốt lành, công bằng, yêu thương, mỹ miều đẹp đẽ đều có ở nơi Người. Và Khi Chúa Giêsu hành động, nói năng, thì Thiên Chúa, trong sự toàn hảo của Người trở nên sáng tỏ đối với những ai thấy Người, nghe Người và đụng chạm đến Người. Như Chúa nói với Phi-lip: Ai thấy ta là thấy Cha.” (Gioan 14:9).
Chẳng ai có thể yêu điều gì nếu họ không đụng chạm được đến điều ấy, và vũ trụ này thì lại qúa lớn lao và kềnh càng đồ sộ. Nhưng khi Thiên Chúa trở nên một Hài Nhi bé bỏng bọc trong khăn nằm trong máng cỏ, con người có thể nói, “Đây là E-ma-nu-en – Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Qua việc Chúa đến với con người yếu đuối và nâng nó lên hiệp thông với Người, bản tính con người trở nên giá trị. Sự hiệp thông này qúa thực đến nỗi tất cả các hành vi và ngôn từ, tất cả thống khổ và nước mắt, tất cả ý nghĩ và suy luận, tất cả quyết tâm và cảm xúc thật rất là người, đồng thời tất cả các hành vi và ngôn từ, tất cả thống khổ và nước mắt, tất cả ý nghĩ và suy luận, tất cả quyết tâm và cảm xúc cũng lại là của Con Thiên Chúa.
Điều người ta nói về Nhập Thể có là gì khác hơn là sự hiệp nhất của hai bản tính, thiên tính và nhân tính trong một ngôi vị cai quản cả hai bản tính. Điều này không có gì là khó hiểu; vì con người là gì hơn là một mẫu khuôn, ở một cấp bậc thấp kém hơn, trong sự kết hiệp của hai bản thể hoàn toàn khác nhau, một bên là toàn thể chất và một bên hoàn toàn vô thể chất, một đàng là thân xác và một đàng là linh thiêng, dưới dạng của một nhân vị? Còn gì ẩn khuất xa nhau hơn là quyền lực và khả năng của thể xác và thần linh? Trưóc khi kết hiệp với nhau, thì khó ai dám nghĩ rằng đến một lúc nào đó thân xác và linh hồn có thể hiệp nhất trong cùng một ngôi vị. Thân xác và linh hồn có thể hiệp nhất như thế đến nỗi nó trở nên một cảm nghiệm rõ ràng cho mỗi tạo vật hữu hạn. Và tuy vậy, nó lại là một cảm nghiệm mà con người không còn lấy làm lạ vì nó đã trở thành sự quen thuộc.
Thiên Chúa, Đấng đã đưa thân xác và linh hồn lại với nhau trong cùng một ngôi vị mà không thay đổi sự khác biệt nơi bản tính của chúng, chắc chắn có thể đem lại sự kết hiệp của thân xác con người và linh hồn con người với ThiênTính của Người dưới sự chỉ đạo do Ngôi Vị Đời Đời của Người. Đây chính là ý nghĩa của việc:
Ngôi Lời trở nên xác phàm. Người đến ở giữa chúng ta (Ga 1:14).
Ngôi Hai mặc lấy tính người không phải là được tạo dựng, giống như tất cả mọi con người khác. Ngôi vị của Người đã có từ trước muôn đời. Ngôi Lời hay còn gọi là Logos. Bản tính người của Người đã được lấy từ việc thụ thai nhiệm mầu của Đức Maria, do bởi Thần Khí của Chúa bao trùm che chở và tiếng thưa Xin Vâng, hay sự đồng lòng của một người nữ, đã được phối hợp cách tuyệt vời. Đây là khởi đầu cho một nhân loại mới từ chất liệu của dòng dõi sa ngã. Khi Ngôi Lời mặc lấy xác thể không có nghĩa là có sự thay đổi trong Ngôi Lời của Thiên Chúa. Ngôi Lời của Thiên Chúa sinh ra mà đã không rời bỏ vị trí ở bên Chúa Cha. Cái xẩy ra không phải là một sự đổi đời của Thiên Chúa trở nên phàm nhân, mà là đưa phàm nhân vào hiệp thông với Thiên Chúa.
Có sự tiếp nối liên tục giữa dòng dõi con người sa ngã qua bản tính nhân loại tiếp nhận từ Đức Mẹ Maria; có một cắt ngang bởi sự thật là Ngôi Vị Đức Kitô, là Ngôi Lời vẫn có trước từ đời đời. Đức Kitô do đó trở thành A-dong thứ hai, Con Người mà bởi Người dòng dõi nhân loại được tái tạo lại. Giáo huấn của Người đặt trọng tâm ở việc qui nạp tất cả tính nhân loại vào với Người, rập theo khuôn mẫu của bản tính con người mà Người đã nhận được từ Đức Maria được liên hiệp với Ngôi Lời vĩnh cửu.
Thật khó để con người hiểu được sự khiêm hạ trong việc Ngôi Lời trở nên con người. Hãy tưởng tượng, nếu có thể được, một người cởi bỏ thân mình, và gởi ghém linh hồn của họ vào trong thân xác của một con rắn. Một sự hèn hạ gấp đôi sẽ tiếp nối theo: thứ nhất là chấp nhận sự giới hạn của cái gò bó trong thân hình của một con rắn trong khi biết rõ là trí khôn của người đó trội vượt hơn nhiều. Và những chiếc răng sắc không thể suy luận các ý nghĩ cách xứng hợp mà chưa hề một con rắn nào đã từng có. Cái hèn hạ thứ hai là bị bó buộc như kết qủa của việc “tự hủy bỏ mình” để sống đồng hạng vơi loài rắn. Nhưng tất cả những so sánh này về việc Thiên Chúa tự bỏ mình, để mặc lấy thân phận làm người và chấp nhận những giới hạn của một con người, thí dụ như đói khát và bị bắt bớ; đó cũng không phải là chuyện nhỏ đối với sự khôn ngoan của Thiên Chúa tự đọa đầy mình sống đồng hàng với những người chài lưới ít học. Nhưng sự khiêm hạ đã bắt đầu từ Nazareth khi Người được thụ thai trong lòng Trinh Nữ Maria chỉ là khởi đầu trong nhiều cách chống ngược lại cái kiêu căng của con người, cho đến cái nhục nhã cuối cùng là chịu chết trên thập giá. Nếu như không có thập giá, thì cũng đã không có máng cỏ ; nếu như không có đinh nhọn, thì đã chẳng có nắm rơm khô . Nhưng Người không thể giảng dạy bài học Thập Giá như cái giá phải trả cho tội lỗi. Người phải đón nhận lấy nó. Thiên Chúa Cha đã không nhân nhượng với Con Một của Người, vì Người đã qúa yêu thương con người. Đó chính là bí mật được gói bọc trong tấm khăn vải.