Đây là trường hợp duy nhất thời niên thiếu của Người được kể lại trong Thánh Kinh. Mười tám năm sau này Người tiếp tục sống ở Na-za-ret.
Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các người. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta. (Lc 2:51-52).
Nếu có người con nào đã từng muốn đòi tự lập (nhất là sau khi đã xác định mạnh mẽ ở đền thờ) thì phải là Người. Và tuy vậy, để thánh hóa và làm gương cho tinh thần vâng lời, và để đền bù cho sự bất tuân phục của con người, Người đã sống dưới mái nhà khiêm tốn, vâng lời cha mẹ của Người. Suốt mười tám năm Người đã sửa những mái nhà của các căn nhà tại Na-za-ret, và tu sửa những chiếc xe kéo của các nhà nông trong xóm. Sự phát triển nơi chiều kích Chúa làm người được mở ra trong ngôi làng cách thản nhiên đến nỗi những người trong xóm cũng không ai nhận ra sự cao cả của Đấng đang ở giữa họ. Thực ra đó là môt việc giảm sút nói theo cách từ bỏ mình và tự hạ thấp bản thân để tùng phục thụ tạo của chính Người. Dĩ nhiên là Người đã theo đuổi nghề thợ mộc, vì mười tám năm sau, những người trong xóm đã hỏi nhau:
“Không phải ông ta là bác thợ mộc con bà Maria sao?” (Mc 6:3).
Thánh Justin tử đạo, dựa theo truyền thống, nói là trong thời gian này, Chúa Giêsu đóng cầy bừa và ách kéo xe và dạy sống tốt lành qua các sản phẩm của công việc làm trong hòa thuận an bình.
Sự tăng triển thêm khôn ngoan được nói về Con Thiên Chúa không phải là việc tăng triển trong ý thức về thần tính của Người. Như là một con người, Người lệ thuộc theo tất cả luật lệ tăng triển của con người; có trí thông minh và có ý chí, nên lẽ tự nhiên là để cho những tài năng này được tỏ ra theo chiều kích tăng triển của con người. Trong việc phát triển kiến thức cảm nghiệm của Người, ảnh hưởng của môi trường sống chung quanh đáng được để ý. Rất nhiều những sánh ví được Người dùng trong các dụ ngôn đã lấy từ thế giới chung quanh nơi Người sinh sống. Chính nhờ ảnh hưởng của cha mẹ mà Người đã học biết ngôn ngữ Do Thái của người bản xứ. Rất có thể, Người đã học tiếng Hy-lạp vì ngôn ngữ này được nói trong vùng Ga-li-lê và cũng là ngôn ngữ mà hai người bà con của Người là Gia-cô-bê và Giu-đa sau này dùng để viết hai Thư Tông Đồ.
Người cũng học nghề buôn bán đồ mộc, một nghề nghiệp đòi hỏi việc phát triển thêm kiến thức con người. Sau này Người lại được coi như một Thầy Thông Giáo của Do Thái do bởi kiến thức sâu rộng Người có về Kinh Thánh và Lề Luật. Người thường bắt đầu những cuộc đàm luận bằng những lời, “Các ông đã chẳng đọc,” để chứng tỏ cho thấy Người thông hiểu Kinh Thánh. Gia đình của Người, Hội Đường, những cảnh sống chung quanh Người, chính cả thiên nhiên, tất cả đều đóng góp vào kho kiến thức và ý chí thuộc tính nhân loại nơi Người. Người có cả kiến thức và ý chí theo chiều kích nhân loại. Không có kiến thức ấy thì Người không thể phát triển khả năng cảm nghiệm; không có ý chí theo chiều kích nhân loại thì người không thể vâng lời ý cao hơn. Hơn nữa, cả hai đều quan trọng đối với Người là một con người. Là một con người, Người có kiến thức của một con người được tạo dựng; là Thiên Chúa, Người vượt xa kiến thức của con người. Đây chính là điều mà Gioan diễn tả như “Ngôi Lời” có nghĩa là sự Khôn Ngoan hay Tư Tưởng hoặc sự Thông Biết của Thiên Chúa.
Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. . . Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành, Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Gioan 1:1,3,14).
Tình liên kết thân mật của Người với Cha trên trời không phải là do cầu nguyện hay suy gẫm. Những cái này con người có thể làm được. Tình thân của Người với Cha trên trời là do sự hiệp nhất trong cùng căn tính Chủ thể Thiên Chúa.
Nói đến cái tội thông dụng nơi con người như tội kiêu căng hay tự mãn, điều xứng hợp là để đền bù cho tội kiêu căng, Đức Kitô phải thực hành sự vâng phục. Người không giống như một người vâng lời để được phần thưởng, hay để xây đắp nhân cách cho tương lai, hơn thế, là Con, Người đã no đầy vui hưởng tình yêu của Chúa Cha. Qua cái vui hưởng no đầy này trào ra cái hạnh phục phó thác như con trẻ đối với ý của Chúa Cha. Đây là lý do Người tỏ ra khi hàng phục trước cây Thập Giá. Trong khoảng khắc hơn kém một giờ đồng hồ của khổ đau trong vười Cây Dầu, Người muốn nói:
Thầy sẽ không còn nói nhiều với anh em nữa, bởi vì Thủ lãnh thế gian đang đến. Đã hẳn, nó không làm gì được Thầy. Nhưng chuyện đó xảy ra là để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy. Nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây! " (Gioan 14:30-31).
Những việc làm thời thơ ấu của đức Kitô được ghi chép lại là những việc của sự vâng phục, vâng phục theo ý Cha trên trời và theo ý cha mẹ ở trần gian. Người dạy rằng nền tảng của sự vâng lời đối với con người cũng là việc vâng lời đối với Thiên Chúa. Những người lớn không vâng lời Thiên Chúa thì cũng đừng trông những người trẻ vâng nghe họ. Tất cả đời sống của Người là tùng phục Thiên Chúa. Người đã chấp nhận phép rửa bởi Gioan dù Người không cần phải làm thế. Người chấp nhận vâng lời đóng thuế đền thờ, cho dù Người là Con Chúa Cha nên được miễn trừ; và Người yêu cầu các môn đệ của Người phải thần phục quyền của Vua Caesar. Can-vê phủ bóng ngả trên Bê-lem; bởi đó lúc này nó làm lu mờ những năm vâng lời ở Na-za-ret. Bằng việc vâng phục các thụ tạo, cho dù Người là Thiên Chúa, Người đã chuẩn bị cho mình sự vâng phục cuối cùng, vâng phục trước cái nhục của Thập Giá.
Mười tám năm tiếp theo, kể từ sau khi lạc mất ở đền thờ, Đấng đã tạo dựng nên trời đất lại đóng vai làm người thợ mộc trong làng, người làm đồ gỗ. Những cây đinh quen thuộc và những khúc gỗ trong xưởng thợ sau này trở nên những dụng cụ của khổ hình cho chính Người; và chính Người sẽ bị đóng đinh vào một khúc cây. Người ta tự hỏi tại sao lại có một sự chuẩn bị lâu dài cho một sứ vụ vỏn vẹn ngắn gọn có ba năm. Lý do có thể là Người chờ đợi cho đến khi bản tính nhân loại mà Người đã nhận lấy được phát triển đến mức hoàn hảo, nhờ đó Người có thể hiến dâng một hy lễ hoàn hảo lên Chúa Cha trên trời. Bác nông dân chờ đợi cho hạt lúa chín trước khi gặt và cho vào cối xay. Do đó Người cũng chờ cho đến khi tính nhân loại nơi Người được trưởng thành tới đỉnh cao của yêu thương, trước khi hàng phục những nhát búa giáng do những người đóng đinh Người giáng xuống và lưỡi hái của những người muốn cắt chiếc Bánh Hằng Sống bởi trời. Con Chiên mới chào đời chẳng bao giờ dùng để dâng lễ hy tế, nụ hồng cũng không được cắt để tặng cho bạn. Mỗi thứ đều có đúng thời gian hoàn hảo của nó. Bởi Người là Con Chiên có thể xếp đặt giờ hiến tế của mình, bởi Người là nụ hồng có thể chọn thời điểm để cắt, Người đã nhẫn nại chờ đợi, khiêm tốn và vâng lời, trong khi Người lớn lên theo thời gian và ân sủng cùng sự khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa và con người. Sau đó Người tuyên bố: “Giờ đã đến.” Do đó bông lúa mì ngon nhất và rượu đỏ tươi nhất trở nên những yếu tố xứng đáng nhất làm lễ hy tế.
.