Sau khi thanh tẩy theo luật Mai-sen, hai ông bà đem con lên Giêrusalem để dâng con cho Thiên Chúa (theo như luật buộc). (Lc 2:22).
Ở Bê-lem Người đã là một người lưu vong; lúc cắt bì Người là vị Cứu Thế tương lai; bây giờ được dâng trong đền thờ, Người trở nên dấu của đối kháng. Như Chúa Giêsu đã chịu cắt bì, Đức Mẹ cũng được thanh tẩy, cho dầu Người không cần chịu cắt bì và Đức Mẹ cũng chẳng cần phải thanh tẩy bởi vì Mẹ đã được thành thai vô nhiễm tội.
Sự thật là tội lỗi nằm trong bản tính nhân loại được nhấn mạnh không chỉ là điều cần thiết phải chịu khổ đau để khử trừ nó trong việc cắt bì, nhưng cũng là điều cần thiết trong việc thanh tẩy. Từ khi dân Is-ra-en được giải thoát khỏi vòng nô lệ của Ai-cập, sau khi những đứa con đầu lòng của người Ai-cập bị giết, thì con đầu lòng của người Do Thái luôn được coi là phải dành cho Thiên Chúa. Bốn mươi ngày sau khi chào đời, là thời gian chỉ định cho một trẻ nam theo luật buộc, bé Giêsu được đưa lên đền thờ. Sách Xuất Hành chỉ thị là con đầu lòng phải thuộc về Thiên Chúa. Trong Sách Dân Số, chi tộc Levi được chỉ định thi hành chức vụ tư tế, và việc hiến dâng này được hiểu như một việc thay thế cho sát tế con đầu lòng, một nghi thức không hề được thực hành. Nhưng khi Con Thiên Chúa được Mẹ Maria đưa vào đền thờ thì khoản luật hiến tế người con đầu lòng được thực hiện trọn hảo; vì sự dâng hiến của Người Con này lên Chúa Cha là tuyệt đối, và sẽ đưa Người đến Cây Thập Giá.
Ở đây chúng ta cũng thấy một thí dụ nữa qua việc của Thiên Chúa trong cung cách con người, đã chia sẻ cái túng nghèo của nhân loại. Tập tục dâng lễ vật thanh tẩy là một con chiên và con chim câu nếu cha mẹ giầu có, và hai con chim câu nếu họ là người nghèo. Thế mà người mẹ đưa con Chiên của Thiên Chúa vào thế gian đã nghèo đến nỗi không có một con chiên để dâng, ngoại trừ chính con Chiên của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã được dâng trong đền thờ lúc bốn mươi ngày tuổi. Khoảng ba chục năm sau Người nhận đền thờ đó là chính Thân Thể Người, nơi Thiên Chúa ngự trị. Nơi đây không phải chỉ duy người Con Đầu Lòng của Maria được dâng hiến, nhưng cũng là Con Đầu Duy Nhất của Chúa Cha muôn đời. Là Con Duy Nhất của Chúa Cha, Người được dâng hiến như con Đầu Lòng của một nhân loại được khôi phục mới lại. Một dân tộc mới được khởi sự nơi Người.
Vai trò của một người trong đền thờ có tên là Si-me-on và là người đã đón tiếp Hài Nhi, được miêu tả là:
Ông là một người công chính và đạo đức, người trông coi đền thờ và chờ đợi ngày khôi phục của Is-ra-en, và Thánh Thần của Chúa ở với ông (Lc 2:25).
Ông được Thánh Thần tỏ cho biết: “Thánh Thần tỏ cho ông biết rằng ông sẽ không chết trước khi được nhìn thấy Đấng Cứu Thế.”
Lời của Thánh Thần dường như ám chỉ rằng ngay khi ông thấy Đức Kitô thì ông sẽ chết. Ông cụ ẵm bế Hài Nhi và ca lên trong hân hoan:
"Muôn lạy Chúa, giờ đây
theo lời Người đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là vinh quang của Ít-ra-en Dân Người."(Lc 2:29-32).
Ông Simeon giống như một người lính canh được Thiên Chúa sai đi để chờ đón Đấng là Ánh Sáng. Khi Ánh Sáng xuất hiện, ông sẵn sàng ca bài từ biệt. Ở nơi Hài Nhi nghèo được mang đến bởi đôi vợ chồng túng nghèo với lễ vật nghèo, Simeon đã khám phá ra sự giầu sang của thế giới. Khi cụ già này bồng bế Hài Nhi trên tay, ông không giống như một người già nua. Ông không nhìn lại qúa khứ nhưng hướng về tương lai, và không phải chỉ là tương lai của dân tộc ông mà là tương lai của cả dân ngoại và của các bộ lạc và các dân tộc trên địa cầu. Một người già ở cuối đời nói về hừng đông của thế giới; ở điểm hoàng hôn của cuộc đời, ông nói về sự hứa hẹn của một ngày mới. Ông đã thấy Đấng Cứu Thế trước bằng đức tin, bây giờ mắt ông có thể nhắm lại, vì không còn gì đẹp hơn để nhìn ngắm. Có những bông hoa chỉ nở về chiều tối. Cái ông nhìn thấy lúc này là “Ơn Cứu Độ”, không phải là sự giải thoát khỏi đói nghèo, nhưng là ơn giải thoát khỏi tội lỗi.
Bài ca của Si-me-on là một việc tôn thờ. Có ba nghĩa cử tôn thờ được trình bày trong lúc đầu đời của Chúa. Các mục đồng tôn thờ; Si-me-on và bà tiên tri An-na tôn thờ; và các nhà Khôn Ngoan tôn thờ. Bài ca của Si-me-on giống như lúc hoàng hôn mà ở đó bóng chiều tà loan báo một chủ thể. Đó là thi ca chúc phúc đầu tiên bởi con người trong đời Chúa Kitô. Si-me-on, tuy vậy, đã nói với Maria và Giuse, chứ không phải là với Hài Nhi. Vì nó là việc không xứng hợp để ông chúc phúc cho Con của Thiên Chúa tối cao. Ông chúc phúc cho cha mẹ chứ không phải cho Hài Nhi.
Sau bài thi ca chúc tụng ông đã trực tiếp nói với Mẹ của Hài Nhi. Ông Si-mê-on biết chính bà chứ không phải Giuse, là người có liên hệ trực tiếp với Hài Nhi mà ông đang bồng ẵm trên tay. Ông đã nhìn thấy những đau khổ đang chờ đón người mẹ này, và ông nói: “Thiên Chúa đã đặt con trẻ này là dấu cho nhiều người ngã xuống hay được đứng lên; và còn là dấu cho nhiều người chống đối” (Lc 2:34).
Dường như cả sử lược cuộc đời của Con Trẻ Thánh này hiện ra trước mắt của cụ già Si-mê-on. Mọi chi tiết của lời tiên đoán đó sẽ được thực hiện trong đời của con trẻ này. Đây là sự thật khó nuốt của Thập Giá, được xác quyết ngay trước khi đôi tay bé nhỏ có thể vươn ra như một hình thánh giá. Hài nhi sẽ gây nên sự xung khắc giữa sự lành và sự dữ, lột mặt nạ của mỗi thứ, gây nên nỗi khiêu khích giận ghét. Người sẽ là viên đá cho người ta vấp phạm, là lưỡi gươm chia cắt sự dữ với sự lành, là viên đá mẫu mực vạch trần những động lực và cảm tính của lòng người. Một khi người ta nghe biết danh tánh của Người và học biết về đời sống của Người thì họ sẽ không còn tiếp tục sống như trước. Họ sẽ bó buộc lựa chọn một là tin theo hay chối từ Người. Sẽ không có sự dung hòa về Người, mà chỉ một là tin nhận hay là chối bỏ, sống lại hay chết đi mà thôi. Tự chính bản tính, Người buộc con người phải phơi bày thái độ và quan điểm thầm kín của họ đối với Thiên Chúa. Sứ vụ của Người không phải là thử thách các linh hồn, nhưng là cứu vớt họ; tuy vậy, bởi linh hồn của họ tội lỗi, một số người sẽ chống lại việc Người xuất hiện.
Bởi thế số phận của Người là sẽ gặp sự chống đối quyết liệt từ con người đến nỗi phải chết, và vấn đề này cũng kéo Maria vào vòng đau khổ cùng cực. Thiên thần đã nói với bà, “Bà có phúc giữa các người phụ nữ,” và bây giờ cụ già Si-mê-on nó với bà là trong chúc lành ấy, bà sẽ là bà mẹ đau khổ. Một trong những hình phạt của tội nguyên tổ là người phụ nữ phải đau khổ khi sinh con; cụ già Si-mê-on nói rằng bà sẽ tiếp tục sống trong nỗi niềm đau khổ của con bà. Nếu Người là người của đau khổ, thì bà cũng sẽ là bà mẹ của sự đau khổ. Một người mẹ của một người con đau khổ mà không đau khổ là một người mẹ không có tình yêu thương. Vì Đức Kitô qúa yêu thương nhân loại đến nỗi Người sẵn lòng chịu chết để xóa bỏ tội lỗi của họ, thì Người cũng muốn Mẹ của Người được quấn liệm trong những tấm khăn bọc khổ đau của Người.
Từ khi nghe những lời của cụ già Si-mê-on, không khi nào nâng đôi tay của con mà Mẹ không nhìn thấy hình bóng của những chiếc đinh nhọn đâm vào tay con; mỗi buổi hoàng hôn là một hình ảnh buổi chiều đẫm máu thương khó. Cụ già Si-mê-on đã liệng bỏ đi cái vỏ kiếm che giấu tương lai khỏi con mắt người phàm, và để cho lưỡi kiếm đau khổ thế gian được lóe lên trước mắt Mẹ. Một nhịp tim đập từ mạch ở cổ tay cũng giống như một tiếng búa giáng xuống. Nếu Người được hiến dâng vào việc cứu chuộc qua khổ đau, thì Mẹ cũng thế. Ngay khi cuộc đời của Hài Nhi này bắt đầu, giống như một thủy thủ già, Si-mê-on đã nói đến việc đắm tầu. Chén đắng chưa đụng đến môi của Hài Nhi, mà luỡi gươm đã đã được dương ngay trước mắt Mẹ.
Đức Kitô càng đến gần lòng của một người, thì lòng họ càng cảm thấy có tội; họ sẽ một là xin ơn tha thứ và tìm thấy bình an, hoặc là họ quay mặt chống đối Người bởi vì họ chưa sẵn sàng từ bỏ tội lỗi của họ. Do đó Người sẽ phân cách người tốt ra khỏi người xấu, lúa mì ra khỏi cỏ lùng. Phản ứng của con người trước sự hiện diện của Chúa sẽ là một thử thách: Một là họ qui tụ tất cả sự chống cự của bản tính ích kỷ, hay là họ tập hợp chúng lại thành một động lực tái phục hồi và sống lại.
Si-mê-on đã gọi Người là “Người Khuấy Động của Thiên Chúa,” Đấng thách thức lòng con người một là tốt hai là xấu. Một khi đối diện với Người, họ phải chọn sự sáng hay bóng tối. Trước mặt tất cả mọi người, họ có thể khoáng đạt; nhưng sự hiện diện của Người sẽ vạch tỏ lòng họ cho thấy là đất tốt hay đá sỏi. Người không thể đi vào lòng người nào mà không làm sáng tỏ và phân cách nó ra; một khi ở trong sự hiện diện của Người, con tim của một người khám phá ra cả ý nghĩ của họ về sự lành và ý nghĩ của họ về Thiên Chúa.
Điều này không thể có nếu Người chỉ nguyên là một bậc thầy thuộc nhân loại. Cụ già Si-mê-on biết rõ điều này, và ông đã nói với Mẹ của Người rằng Con của bà phải chịu đau khổ bởi vì lối sống của Người sẽ nghịch lại với những lối sống thỏa mãn mà đa số những người khác sống. Người sẽ đối xử với từng linh hồn trong cách hành xử riêng của Người, giống như mặt trời chiếu sáng trên sáp và làm cho nó mềm ra, và chiếu toả trên bùn mềm và làm cho nó khô cứng lại, mà chẳng làm cho mặt trời khác đi, chỉ có đối tượng được chiếu sáng đổi khác đi mà thôi. Là Ánh Sáng cho thế gian, Người sẽ là niềm vui cho những người lành và người yêu ánh sáng; nhưng Người sẽ giống như ánh sáng soi tìm những người xấu xa yêu thích sống trong bóng tối. Hạt giống như nhau, nhưng đất ruộng vườn thì khác biệt, và mỗi thửa đất sẽ bị xét xử theo cách nó tiếp nhận hạt giống. Ý muốn cứu chuộc của Đức Kitô bị giới hạn bởi sự tự do đón nhận hay từ chối do mỗi linh hồn. Đó là lý do ông Si-mê-on nói: “Tâm tư thầm kín của nhiều người sẽ bị giải bày” (Lc 2:35).
Truyện ngụ ngôn Đông phương kể về một tấm gương nhiệm mầu rất trong sáng khi một người tốt nhìn soi vào tấm gương đó; trái lại nó trở nên thật mờ khi một người tội lỗi nhìn soi vào nó. Nhờ đó người chủ của tấm gương luôn luôn có thể biết về tư cách của người nhìn soi vào tấm gương. Cụ già Si-mê-on nói với Mẹ của Hài Nhi là “Con của bà” sẽ giống như tấm gương đó: người soi nhìn vào Người sẽ một là yêu hai là ghét Người, tùy theo sự phản chiếu từ con người của họ. Ánh sáng rọi vào một tấm giấy rọi hình sẽ bị phản ảnh in hình trên nó do bởi hóa chất không thể tránh được. Simêon nói rằng ánh sáng của Hài Nhi chiếu rọi trên dân Do Thái và dân ngoại sẽ đóng dấu ấn trên mỗi người một dấu tích không phai mờ do sự hiện diện của ánh sáng.
Si-mê-on cũng nói rằng Hài Nhi sẽ phơi bày sự thật từ tâm tư nội cung của lòng con người. Người thử ý nghĩ của mọi người gặp gỡ Người. Phi-la-tô lưỡng lự và rồi yếu nhược; Hê-rôd mỉa mai về Người; Giu-đa hướng chiều theo sự tham lam của an sinh xã hội; Ni-cô-đê-mô lén lút trong bóng tối để tìm ánh sáng; những người thu thuế tìm đến với lòng thành; những phụ nữ điếm đàng tìm lại sự trong trắng; người trai trẻ giầu sang chối bỏ tinh thần nghèo khó của Người; người con hoang đàng quay trở về; Phêrô ăn năn thống hối; một người môn đệ treo cổ chết. Từ ngày đó đến nay, Người tiếp tục là dấu của sự đối kháng. Do đó, thật đúng là Người đã chết trên trên cây gỗ mà một khúc gỗ nằm ngang và một khúc nằm dọc nghịch hướng với nhau. Như việc cắt bì làm cho chảy máu, thì việc thanh tẩy trong đền thờ báo trước về việc Người bị đóng đinh.
Sau khi tiên báo là Người là dấu cho người ta chống đối, Si-mê-on đã quay sang nói với người Mẹ:
“Và một lưỡi gươm sẽ đâm thấu lòng bà.” (Lc 2:35).
Bà đã được cho biết là Người sẽ bị chối bỏ bởi thế gian, và cái chết trên thập của Người sẽ là một nhát gươm đâm thấu nát lòng bà. Như người con chấp nhận thánh giá cho mình, thì Người cũng bằng lòng để lưỡi gươm đau khổ đến với Mẹ. Nếu Người chọn thân phận khổ đau, thì Người cũng chọn cho Mẹ chức vụ một người Mẹ của khổ đau. Thiên Chúa không luôn luôn bao che người tốt khỏi khổ đau. Chúa Cha đã không giữ Con của Người tránh thoát khổ đau, và Người Con cũng không giúp Mẹ mình tránh khỏi khổ đau. Trong khổ nạn của Người thì cũng phải có sự cảm thông của Mẹ. Một Đức Kitô không đau khổ để trả giá cho tội lỗi của nhân loại sẽ làm Người giảm giá trị xuống mức độ chỉ như một người dẫn đường chân chính mà thôi; và người Mẹ không chia sẻ khổ nạn của con cũng sẽ không xứng đáng với vai trò lớn lao của bà.
Si-mê-on đã không những mở bao gươm; ông cũng báo cho bà biết nơi mà sự quan phòng đã xếp đặt cho lưỡi gươm nhắm tới. Sau này Người Con đó nói, “Ta đến để mang gươm giáo.” Si-mê-on đã nói với bà rằng bà sẽ cảm thấy trong lòng khi Con của bà nằm treo trên cái dấu của đối kháng và bà đứng dưới chân thấy thấu đâm trong thương đau. Lưỡi đòng đâm thâu trái tim của Người một cách mầu nhiệm nào đó cũng chạy vào tim của lòng bà. Hài Nhi đến để chết, chứ không để sống, vì tên của Người là “Đấng Cứu Thế!”