Tôi học cấp 2, cấp 3 ngay tại Quỹ Nhất – thị trấn nhỏ, quê nhà thân thuộc như lòng bàn tay mẹ. Quãng đường đến trường không xa. Tôi không phải mang theo nỗi nhớ mẹ trên từng cây số, không phải bước đi một mình giữa những thành phố lớn, những lối đi lạ lẫm. Nhưng – tuổi thiếu niên luôn có một loại xa cách khác, âm thầm và sâu sắc hơn khoảng cách địa lý.
Đó là khoảng cách giữa những trái tim đang trưởng thành và một người mẹ vẫn âm thầm dõi theo mà không can thiệp.
Mẹ không còn dạy tôi bài vở như khi tôi còn nhỏ. Mẹ không dò bài, không kiểm tra điểm số. Mẹ lùi về làm người nấu cơm, giặt áo, là bóng dáng cuối sân mỗi chiều tôi đi học về. Nhưng sự im lặng đó lại là sự hiện diện thấm đẫm – như hơi ấm trong bát canh mẹ nấu, như đôi dép mẹ để ngay ngắn trước cửa mỗi sáng sớm.
Tôi bắt đầu có những suy nghĩ riêng. Những khát khao vượt thoát. Những mộng mơ không gọi tên. Và đôi lúc tôi quên mất rằng mẹ cũng đang già đi.
Vậy mà mẹ vẫn khỏe. Cực kỳ dẻo dai. Hết lo cho tôi đi học, mẹ lại tranh thủ ra vườn cuốc đất, phơi sắn, nấu cơm, giặt đồ – không bao giờ than thở một lời. Chúa ban cho mẹ sức khoẻ như ban cho đất mùa mưa – mẹ có thể oằn mình mà không gục ngã.
Có lẽ những năm ấy là những năm mẹ lặng lẽ sống đời hy sinh âm thầm nhất. Và tôi – dẫu sống bên cạnh mẹ – nhưng lại bắt đầu quên nói lời “cảm ơn”. Không phải vì tôi vô ơn. Mà vì tôi cứ nghĩ mẹ luôn ở đó. Mẹ vẫn khỏe. Mẹ vẫn làm mọi việc. Mẹ vẫn cười.
Tôi không biết – người mẹ mạnh mẽ ấy sẽ có ngày yếu đi, sẽ có lúc nằm xuống, sẽ có khoảnh khắc mong nghe một lời cảm ơn mà tôi chưa kịp nói.