Một ngàn năm trước đây, một nhà truyền giáo đến thăm một ngôi làng trên một hòn đảo nhỏ sâu trong vùng Amazon, khi ông ta bắt gặp ba người bạn nói chuyện, ca hát và cười đùa với nhau.
Nhà truyền giáo đến với họ và hỏi, “Các ông có cầu nguyện không?”
“Ô, có chứ, thưa cha!” họ trả lời.
Hơi chút ngạc nhiên, nhà truyền giáo hỏi, “Các ông cầu nguyện thế nào?”
“Chúng con chỉ biết có một kinh cầu nguyện,” các ông thú nhận.
“Kinh gì đó?”
Ba ông nhìn nhau và sau đó cúi đầu cách khiêm tốn. “Cha sẽ không biết đâu. Nó không giống như kinh cha đọc, thưa cha.”
“Đừng bận tâm,” nhà truyền giáo nói, “Tôi chỉ tò mò về kinh này.”
Các ông này không nói gì cả, đầu họ vẫn cúi xuống đất khi ngồi thành một vòng chung quanh đống lửa.
“Này các ông, hãy nói cho tôi biết ai dậy các ông kinh này?” nhà truyền giáo hỏi.
Một trong ba ông lầm bầm, “Chúng con tự dậy lẫn nhau.”
“Các ông có thể chia sẻ kinh đó với tôi không?”
“Được chứ,” một trong ba người nói. “Mỗi sáng và mỗi tối, trước khi chúng con làm việc và trước khi ăn, chúng con cầu nguyện, ‘Lạy Chúa, Ngài là ba; chúng con là ba. Xin thương xót chúng con.”
“Đây là lời cầu thật đẹp,” nhà truyền giáo nói với ba ông, “nhưng để tôi dậy cho các ông bài kinh mà Thiên Chúa ưa thích.” Nhà truyền giáo dậy các ông một bài kinh xưa của Kitô hữu.
“Đây là bài kinh mà Thiên Chúa sẽ nhận lời?” ba ông hỏi.
“Đúng vậy,” nhà truyền giáo khẳng định.
Ba ông ân cần cảm ơn nhà truyền giáo và xin chúc lành. Họ nói, “Mời cha đến ăn uống với gia đình chúng tôi tối nay, và mọi tối khi cha còn ở đây trên đảo này. Chúng tôi có một phòng để cha ngủ, đọc sách và cầu nguyện, và nếu có bất cứ gì khác cha cần, cha chỉ cần nói nhỏ vào tai chúng tôi và chắn chắn chúng tôi sẽ có thứ ấy cho cha thật sớm nếu có thể.”
Nhà truyền giáo ở đảo này ba tuần, dạy dân chúng về Thiên Chúa và đường lối của Người cũng như dạy họ cách cầu nguyện. Cha nhận thấy ba người này được cộng đoàn rất kính trọng, và nhiều người tìm đến họ để được khuyên bảo.
Mỗi khi nhà truyền giáo cần điều gì, một trong người sẽ xuất hiện với điều đó trước khi ông hỏi. Như thể họ biết được những gì ông cần trước khi ông nhận biết. Sự hiếu khách của họ thật sâu đậm và đích thực.
Ba tuần sau, khi tầu của ông rời bến, nhà truyền giáo lại thấy ba ông này, nhưng lần này, trước sự kinh ngạc của ông, họ bước đi trên mặt nước đến chiếc tầu. “Khoan đã, cha ơi, khoan đã!” một trong ba người lớn tiếng gọi. “Hãy dạy chúng tôi một lần nữa bài kinh mà Thiên Chúa ưa thích. Chúng tôi quên rồi.”
Nhà truyền giáo cúi đầu, không phải vì khiêm tốn, nhưng vì xấu hổ. Vẫy tay từ biệt ba ông đang bước trên mặt nước tiến đến mình, ông nói, “Thôi đừng bận tâm. Lời cầu của chính các ngài thì cũng đủ.”
Ba người bạn xoay lưng và bước vào bờ. Và khi con tầu dong buồm ra khơi, nhà truyền giáo xin Thiên Chúa tha thứ vì đã không nhận ra sự khác thường trong sự bình thường, không thấy sự mỹ miều, sự thánh thiện đơn sơ được ẩn giấu trong sự nhân từ, khiêm tốn, ân cần, quảng đại, tử tế, phục vụ cộng đồng của ba ông này, và sự hiếu khách.
***
Nếu bạn có thể thi hành bất cứ phép lạ nào của Chúa Giêsu, bạn sẽ chọn phép lạ nào? Bạn sẽ chọn đi trên mặt nước? Tôi biết nhiều sinh viên đại học sẽ muốn biến nước thành rượu. Tôi biết nhiều người sẽ nuôi người đói ăn bằng cách hóa bánh và cá ra nhiều, và những người khác sẽ chữa lành người thân yêu. Các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu đã nhìn thấy Người làm các phép lạ này, tuy vậy điều ngạc nhiên và cảm kích nhất là cách Người đối xử và tha thứ cho kẻ thù. Sự tha thứ là một Giây Lát Thánh Thiện.
Chúa Giêsu tiên đoán là các môn đệ của Người sẽ thi hành những điều vĩ đại hơn chính Người. Tôi tự hỏi không biết Người nghĩ đến điều gì. Những gì tôi biết là chúng ta sống trong một thế giới tổn thương đầy những người bị thương tích. Hàng ngày tôi gặp những người thực sự cần một phép lạ. Nhưng họ là những người ở các nơi khác nhau. Hãy bắt đầu với bạn.
“Bạn thế nào?” Lúc nào người ta cũng hỏi chúng ta câu này. Đó là một câu hỏi quan trọng, và đáng để trầm tư và mặc tưởng. Vấn đề là quá nhiều người hỏi chúng ta câu này và chúng ta trả lời, “Tốt,” hoặc một câu tương tự quá thường xuyên đến độ chúng ta coi thường câu trả lời cho câu hỏi quan trọng này. “Như vậy, bạn thực sự thế nào?” Khi nào là lần sau cùng bạn thực sự nghĩ về điều đó? Bạn đang phát triển hay bạn chỉ gắng sống còn? Bạn có hướng đi rõ rệt và có năng lực hay tản mác và mệt mỏi? Bạn có thích cuộc đời của bạn hay không? Nếu không, bạn có biết những gì bạn không thích? Bạn có thực sự biết những gì bạn cần và mong muốn không?
Nhiều khi chúng ta chỉ mộng du qua cuộc đời, hoàn toàn không để ý đến những người, những giây phút, và các tiềm năng khác thường chung quanh chúng ta. Khi điều đó xảy ra, đời sống mất hương vị của nó.
Trong những lúc ấy chúng ta cần một người bạn tốt vỗ vai chúng ta, thúc nhẹ chúng ta, hoặc lay động chúng ta và nói, “Thức dậy đi!” Tôi đã từng ở đó. Tôi lại ở đó vào năm trước. Tôi bị ung thư ba lần, nhưng năm ngoái thì tệ nhất trong đời. Đó là năm đầu tiên trong đời mà tôi không thể nói, “Năm nay thì tốt hơn năm trước.” Điều đó lay động tôi. Tôi có một cuốn sách bán chạy nhất về việc theo đuổi giấc mơ của bạn và giúp người khác hoàn thành giấc mơ của họ, nhưng tôi phải ngưng mơ ước. Tôi cảm thấy buồn, tôi lưỡng lự về đủ mọi thứ, cảm thấy bị phản bội và bắt đầu buồn chán, rơi vào cái bẫy của việc ngày càng tập trung đến chính mình, cảm thấy nản, và thất bại. Tôi không biết làm thế nào để chỗi dậy, nhưng đúng lúc ấy tôi cảm thấy bàn tay của Chúa đặt trên vai tôi, khích lệ tôi hãy thức dậy, hãy nhìn chung quanh, hãy cảm thấy biết ơn, hãy chú ý đến những điều cơ bản, và lại bắt đầu sống.
Cuộc đời là để sống, và cách sống tốt nhất được thi hành giữa những điều bình thường của từng ngày. Nền văn hóa hiện đại khinh bỉ điều bình thường và tán dương điều phi thường, nó làm cho chúng ta quên đi những điều lạ lùng trước mặt chúng ta, chung quanh chúng ta, và bên trong chúng ta ngay bây giờ.
Ba ông lão trong câu chuyện trên đã sống một cuộc đời hiền lành, khiêm tốn, ân cần, độ lượng, tử tế, phục vụ, và hiếu khách, và họ tràn đầy sự thư thái và niềm vui. Bạn có thể tự trả lời cho bạn, nhưng tôi muốn có thêm những gì họ có và ít đi những gì tôi đang có. Ba ông lão đã sống một cuộc đời đơn giản. Ở đó có một bài học cho tôi, và có lẽ cả cho bạn nữa. Mỗi lần tôi ý thức nỗ lực đơn giản hóa cuộc đời, tôi trở nên một phiên-bản-tốt-hơn của chính tôi, tôi dễ thở hơn và đời tôi tốt hơn. Nhưng thế gian này không ngừng tìm cách chồng chất sự phức tạp lên người tôi, và tôi đã để nó xảy ra. Tôi không phải là nạn nhân. Cuộc đời là của chính tôi, để sống và để trả lời cho điều đó.
Nói chuyện với người khác, tôi khám phá rằng không chỉ có một mình tôi cảm thấy như vậy. Càng nói chuyện với những người khác, tôi càng nhận ra rằng quá nhiều người phải đau khổ dưới một gánh nặng không chịu nổi của những hoàn cảnh mà chúng độc đáo cho riêng họ nhưng cũng chia sẻ nhiều chủ đề tranh đấu của chính tôi.
Tôi không thích đồng hồ báo thức. Chỉ cái tên của nó thôi cũng làm tôi khó chịu. Có ai muốn mở đầu một ngày được báo động? Nhưng khi bạn ghi tên lấy phòng ở khách sạn, họ thường hỏi bạn có muốn được gọi đánh thức không. Tôi thích điều đó. Tất cả chúng ta thỉnh thoảng cần được gọi đánh thức. Năm ngoái tôi cần một lần. Có lẽ ngay bây giờ bạn cần một lần. Thật quá dễ để rơi vào tình trạng mộng du qua cuộc đời.
Đã đến lúc phải thức giấc. Nó không quan trọng khi nào bạn cảm thấy buồn ngủ, hay tại sao. Đã đến lúc thức giấc ngay bây giờ. Đã đến lúc nhận biết những phép lạ mỹ miều xảy ra chung quanh chúng ta hàng ngày. Ba ông lão trong câu chuyện đã có thể đi trên mặt nước, nhưng tôi là một người thực tế. Thà tôi chia sẻ bữa ăn với bạn hữu hơn là đi trên mặt nước. Tôi sẽ không đổi một cái ôm âu yếm con tôi để có được khả năng đi trên mặt nước. Tôi thà thức giấc ngày mai và có thêm một ngày sống hơn là đi trên mặt nước và chết tối nay. Không khí chúng ta thở, nước chúng ta uống, nụ cười của một người lạ, cử hành tình yêu, đi bộ những nơi yên tĩnh, chơi đùa, đọc sách, tĩnh lặng với Thiên Chúa và thấm đẫm tình yêu và sự khôn ngoan Người muốn đổ xuống chúng ta… đây là những phép lạ của đời sống.
Bạn có sẵn sàng để cảm nghiệm một số phép lạ hàng ngày trong đời bạn không? Tôi nghĩ đã đến lúc. Đây là thời gian của chúng ta – thời gian của bạn và của tôi. Chúng ta hãy nắm lấy nó một cách say mê.