Lòng tôn kính Thánh Gia “tam vị ở trần gian” Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse mới phát triển ở những thế kỷ gần đây.Vào thế kỷ mười bảy, việc đạo đức đã trải rộng ở Âu châu và Canada, được hỗ trợ bởi những nhân vật như chân phước Marie de l’Incarnation dòng Ursuline, Cha Jean Jacques Olier sáng lập tu hội Xuân bích, và Cha Pierre Marie Chaumonot, SJ. Năm 1665, Giám Mục Nouvelle France, Chân Phước Francois Xavier de Montmorency-Laval, đã cho phép huynh đoàn Thánh Gia Québec cử hành một lễ kính vào ngày 22/1. Khi lễ kết hôn Thánh Giuse được mừng vào ngày này, lễ Thánh Gia được dời lên Chúa nhật thứ hai sau lễ Hiển Linh. Đặc ân này đã sớm mở rộng tới toàn thể giáo phận với bài lễ và kinh nguyện riêng.
Năm 1865 bài lễ và kinh nguyện riêng đã được phép sử dụng trong giáo phận Montréal, rồi cho toàn thể tỉnh Québec.
Tông Thư Neminem fugit năm 1892 của đức Lêô XIII đã phê chuẩn những quy chế của Hiệp Hội Thánh Gia Quốc Tế. Vào ngày giáp năm tông thư này, đáp lại những lời thỉnh cầu của nhiều giám mục, một thánh lễ và kinh phụng vụ mới về lễ này đã được chấp thuận với những bài thánh ca mà người ta cho rằng do chính đức Lêô XIII sáng tác: Kinh Chiều O lux beata caelitum, Kinh Sách Sacra iam splendent và Kinh Sáng O gente felix hospita. Tất cả những nơi và tổ chức đã được phép mừng lễ có thể sử dụng những bản văn này và dĩ nhiên những giáo phận và hội dòng khác cũng có thể áp dụng phép này. Giáo quyền đã thống nhất việc mừng ngày lễ vào Chúa nhật thứ ba sau lễ Hiển linh.
Năm 1893, những giáo phận sau đây đã xin và đã được phép cử hành lễ này: Albano, Rome và các vùng phụ cận, Andria, Melfi, Rapolla, Acquapendente, Ariano, Chioggia, Lipari, Caiazzo, Trezzo và Trevisio trong tổng giáo phận Milan, tất cả ở trong nước Ý; Lavant ở Nam tư; Tours và Lyons ở Pháp; Brugge ở Bỉ; Eichstatt ở Đức; năm 1894 tại Litomerice ở Tiệp khắc; năm 1903 Biella ở Ý. Các hội dòng được phép cử hành trong năm 1893-1894 bao gồm dòng Phan-sinh, dòng Chúa Cứu thế, dòng Gioan Thiên Chúa, dòng Biển-đức Silvestrini và các tỉnh dòng Đaminh ở đảo Sicilia và Malta. Lễ được xếp vào bậc duplex maior. Tại Thánh địa, nhà thờ Thánh Giuse ở Nazaret và thượng phụ Latinh ở Giêrusalem được phép cử hành lễ ngoại lịch về Thánh gia trong một số ngày.
Năm 1914 lễ Thánh Gia được ấn định mừng vào ngày 19/1. Dưới thời đức Bênêđitô XV, theo lời thỉnh cầu của nhiều vị giám mục, lễ này đã mở rộng cho toàn thể Hội Thánh với bậc duplex maior, vào Chúa nhật trong tuần bát nhật lễ Hiển Linh với những đặc ân giống như ngày Chúa nhật. Trong lịch canh tân 1969, lễ này là một trong bốn lễ được chỉ định thường xuyên mừng vào ngày Chúa nhật, ấn định vào Chúa nhật trong tuần bát nhật Giáng sinh hoặc vào ngày 30/12 trong những năm không có ngày Chúa nhật trong tuần bát nhật.
Các bài đọc mới được thêm vào cho chu kỳ ba năm của Thánh lễ là Hc 3, một vài câu của Cl 3 và hai đoạn Tin Mừng. Sách lễ năm 1969 đã thay đổi các lời nguyện. Năm 1971, những bản văn mới cho Phụng vụ các giờ kinh, bao gồm bài đọc trích ở diễn từ của đức Phaolô VI, đã hoàn tất việc sửa đổi lễ này.
Lễ này có nguồn gốc gần đây, mặc dầu việc chọn Thánh Giuse làm bổn mạng giới công nhân và lao động có một lịch sử lâu dài. Ở đây chúng ta truy tầm một vài dấu vết trong hai thế kỷ vừa qua. Thí dụ trong diễn từ năm 1871, đức Piô IX đã nhìn nhận rằng việc đặt tên Thánh Giuse cho một hiệp hội tìm kiếm việc làm cho những người thất nghiệp thật là thích hợp bởi vì người đã nuôi sống Thánh gia. Đức Lêô XIII dành một vài đoạn trong thông điệp Quamquam Pluries cho Thánh Giuse như là kiểu mẫu và bổn mạng của những người lao động. Năm 1905 đức Piô X ban ân xá cho một lời cầu nguyện với Thánh Giuse, đề cao việc thánh nhân nghỉ việc vào ngày của Chúa và là gương mẫu cho tất cả các công nhân bắt chước. Năm sau, người cũng ban ân xá cho ai đọc kinh cầu nguyện với Thánh Giuse, gương mẫu của các công nhân. Kinh cầu nguyện nổi tiếng này do chính người sáng tác. Năm 1909, kinh cầu Thánh Giuse được chấp thuận bao gồm lời cầu “gương mẫu thợ thuyền.” Tự sắc Bonum Sane do đức Bênêđitô XV ban hành năm 1920 đã đặt Thánh Giuse như mẫu gương cho những người lao đôïng để họ có thể học hỏi nơi người.
Trong một bài huấn từ ngày 11/3/1945, đức Piô XII đã đặt các Hiệp Hội Các Người Lao Động Công giáo Italia (ACLI) dưới sự bảo trợ của Thánh Giuse. Để kỷ niệm mười năm biến cố này, người đã loan báo vào ngày 1/5/1955 việc thiết lập lễ Thánh Giuse lao động trong phụng vụ, được cử hành ngày đầu tiên của tháng Năm, để Kitô hoá ngày lao động trần thế. Ngày lễ muốn trưng bày người thợ khiêm tốn Nazaret như mẫu gương cho các người lao động, giúp họ nhận ra phẩm giá thật sự của sự làm việc và lôi kéo họ đến gần Đức Kitô.
Ngày 1/5/1956 những bản văn mới cho Sách lễ và Sách nguyện được ban hành với tiêu đề “Lễ trọng Thánh Giuse lao động, chồng của đức Trinh Nữ Maria, hiển tu”. Một đề tài quan trọng là công việc của Thánh Giuse tiếp tục công việc của Thiên Chúa trong việc tạo dựng thế giới. Đặc biệt trong thánh thi kinh Sáng, (Te, pater Ioseph, ópifex) chúng ta kêu xin Thiên Chúa là Cha và là thợ đã làm nên tất cả mọi sự, đến giúp đỡ chúng ta trong công việc của mình, biết bắt chước Thánh Giuse, người cũng là cha và là thợ. Chín bài đọc trích từ St 1-3, đức Piô XII, thánh Albertô Cả, cùng với Cl 3 và Mt 13,54-58 được dùng cho các bài đọc trong thánh lễ và các giờ kinh nhỏ.
Bậc lễ trọng chỉ kéo dài một thời gian ngắn, bởi vì từ năm 1969 lễ này chỉ còn là lễ nhớ tự do. Tuy nhiên, các bài đọc của Sách lễ vẫn giữ như cũ, chỉ thêm vào một vài bản văn mới. Bản văn giờ kinh phụng vụ đã chọn số 33-34 của Hiến chế mục vụ “Hội Thánh trong thế giới ngày nay” cho bài đọc kinh Sách, và soạn ra những lời cầu mới cho kinh Sáng và kinh Chiều. Thánh Giuse được nhìn nhận là bổn mạng và gương mẫu cho các người thợ và mặc dầu bậc lễ bị rút lại là lễ nhớ tự do, lễ này còn được cử hành long trọng tại nhiều nơi trên thế giới.
Trên đây là những lễ được mừng trong toàn thể Giáo Hội; tiếp theo là những lễ được mừng ở một vài địa phương hay thuộc về quá khứ.
Tại công đồng Constance năm 1416, Cha Jean Gerson đã đề nghị các linh mục cử hành một lễ ngoại lịch kính nhớ việc kết hôn của Đức Maria và Thánh Giuse vào ngày thứ năm của tuần III mùaVọng vì thích hợp với đoạn Tin Mừng của ngày này. Năm 1474 Cha Bernardinô Bustis thuộc dòng Phan-sinh đã viết một kinh phụng vụ cho ngày lễ. Năm 1537 các tu sĩ dòng Phan-sinh mừng lễ vào ngày 7/3, và chẳng bao lâu, dòng Tôi Tớ Đức Bà mừng ngày 8/3, dòng Đaminh vào ngày 22/1.
Năm 1684 đức Innocentê XI cho phép cử hành trong vương quốc của Leopold I và sau đó ở Tây ban nha. Ở Pháp và Canada lễ mừng vào ngày 22/1 trong khi những huynh đoàn Balan mừng ngày 23/1. Năm 1725 đức Bênêđitô XIII mở rộng lễ này cho các quốc gia thuộc quyền giáo hoàng và ấn định ngày lễ vào 23/1.
Trong thế kỷ XIX và XX, Toà Thánh ban phép đặc biệt cho nhiều nơi cử hành lễ, thông thường vào ngày 23/1, nhưng đôi khi vào các ngày khác. Ví dụ năm 1859 lễ được ghi vào ngày 11/2 trong sách kinh nguyện riêng cho tổng giáo phận Fribourg (và ngày 13/2 theo ấn bản 1894) và ngày 26/11 cho giáo phận Cordoba.
Năm 1961, thánh bộ Nghi Lễ ban hành một huấn thị loại bỏ các lễ đặc biệt trong những lịch riêng, trong đó có lễ kết hôn của Đức Maria và Thánh Giuse, ngoại trừ những nơi có một lý do đặc biệt để cử hành. Trong thời kỳ canh tân phụng vụ hậu công đồng Vaticanô II, lễ này một lần nữa được cho phép trong những lịch phụng vụ riêng. Ví dụ, năm 1989, dòng Hiến Sĩ Thánh Giuse (Oblati di San Giuseppe) được phép cử hành lễ “kết hôn thánh của Đức Maria và Thánh Giuse” như lễ kính vào ngày 23/1, với những bản văn riêng, trong đó có kinh tiền tụng như sau:
Cha đã cho Hội Thánh niềm vui cử hành lễ kết hôn thánh thiện của Đức Maria và Thánh Giuse: nơi Đức Maria, đầy ân sủng và xứng đáng là mẹ Con Một của Cha, Cha đã báo cho biết sự khởi đầu của Hội Thánh, vị hôn thê xinh đẹp của Đức Kitô; Cha đã chọn Thánh Giuse, người tôi tớ trung tín và khôn ngoan như là chồng của đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, và đặt người làm đầu gia đình của Cha, để trông coi người Con duy nhất của Cha, đấng được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
Năm 1416 Cha Jean Gerson, trong bài giảng cho các nghị phụ của công đồng Constance, đã khẩn cầu Thánh Giuse như là bảo trợ của Hội thánh, với niềm hy vọng được thấy sự hiệp nhất trong Hội Thánh đang bị chia rẽ do sự hiện diện của hai giáo hoàng giả và một giáo hoàng chính thức. Năm 1621 tổng hội dòng Cát-minh đã chọn Thánh Giuse làm bảo trợ và người cha của toàn thể hội dòng. Năm 1680, Toà Thánh đã cho phép dòng Cát-minh cử hành lễ Thánh Giuse là bảo trợ. Lễ được cử hành vào Chúa nhật thứ ba sau lễ Phục sinh với những bản văn riêng cho thánh lễ và các giờ kinh phụng vụ. Lễ đã mở rộng cho dòng Augustinô năm 1700, dòng Đức Mẹ chuộc kẻ làm tôi năm 1702, giáo phận Mexico năm 1703 và chẳng bao lâu đến nhiều dòng tu và các giáo phận khác. Vào giữa thế kỷ XIX, lễ đã lan rộng đến nỗi vào ngày 10/9/1847 đức Piô IX đã châu phê cho toàn thể Hội Thánh Sách lễ và Sách nguyện riêng cho lễ này, được cử hành vào Chúa nhật thứ ba sau lễ Phục sinh như lễ bậc duplex secundae classis. Sắc lệnh quan trọng ngày 8/12/1870 công bố Thánh Giuse bảo trợ toàn thể Hội Thánh tăng thêm lý do thần học cho việc cử hành, mặc dầu không thêm gì long trọng cho phụng vụ.
Năm 1911 sắc lệnh của đức Piô X đã ấn định “Lễ trọng Thánh Giuse, hiển tu, bảo trợ toàn thể Hội Thánh” được cử hành vào Chúa nhật thứ ba sau lễ Phục sinh, như lễ bậc duplex primae classis với tuần bát nhật. Với những thay đổi năm 1913 nhằm tách rời các ngày lễ khỏi ngày Chúa nhật, lễ này được ấn định mừng vào ngày thứ Tư trước Chúa nhật thứ ba sau lễ Phục sinh, tuy vẫn duy trì tuần bát nhật và bậc lễ.
Năm 1956, sau khi thiết lập lễ Thánh Giuse lao động, lễ này đã bị bỏ đi, nhưng ít là tiêu đề “Bảo trợ của toàn thể Hội Thánh” được giữ lại bằng cách gắn thêm cho ngày lễ 19/3. Năm 1957 vì dòng Cát-minh đã mừng lễ này hơn ba trăm năm nên được phép giữ lại trong lịch canh tân của họ như lễ bậc duplex primae classis với kinh phụng vụ và thánh lễ riêng vào ngày thứ Tư trước Chúa nhật thứ ba sau lễ Phục sinh.
Trong lịch phụng vụ 1969 lễ ngày 19/3 được đặt tên “Thánh Giuse, Chồng của Đức Maria” đã bỏ đi tiêu đề “bảo trợ Hội Thánh”.
Từ năm 1979, nhiều thỉnh cầu khôi phục lại tiêu đề do các bề trên Tổng quyền, các Trung tâm và Hội thảo quốc tế về Thánh Giuse đệ trình lên Toà Thánh, nhưng không được chấp thuận. Năm 1981, Thánh bộ Bí tích và Phụng tự lặp lại phúc thư của Hồng y Villot năm 1973, theo đó tước hiệu bảo trợ nên để trong lịch riêng hơn là trong lịch phổ quát. Cha Gauthier đã lưu ý rằng trong những ấn bản sách lễ Roma bằng tiếng Pháp, một số các thánh bảo trợ được ghi trong lịch riêng như các vị thánh bổn mạng của nước Pháp, Lục xâm bảo và châu Âu.
Trong tông huấn Redemptoris Custos , đức Gioan Phaolô II xác nhận cách chính thức sự quan trọng của tước hiệu “bảo trợ Giáo Hội ngày nay” (chương VI) như sau:
Giáo Hội luôn phải kêu cầu Thánh Giuse bảo trợ, không những để bảo vệ Giáo Hội khỏi những nguy hiểm không ngừng nẩy sinh, nhưng nhất là còn để nâng đỡ Giáo Hội trong những nỗ lực canh tân nhằm rao giảng Tin Mừng cho thế giới cũng như tái rao giảng Tin Mừng.
Dòng Chúa Cứu thế đã cử hành lễ này vào Chúa nhật thứ Tư của tháng tư. Năm 1856 lễ này được dời vào ngày 17/2. Giáo phận Castellammare di Stabia (gần Napoli, Italia) đã xin phép cử hành lễ này vào năm 1866 nhưng bị từ chối. Năm 1937 giáo quyền đã cho phép cử hành các lễ riêng tại đền Thánh Giuse ở Allex (Drôme) bên Pháp: hoặc là lễ kết hôn ngày 23/1 hay lễ nhớ cuộc trốn sang Ai cập ngày 17/2. Năm 1958 nhà nguyện Thánh Giuse ở Montréal đã được phép cử hành thánh lễ riêng như lễ duplex maior. Lời thỉnh cầu của họ ghi nhận rằng đây là một biến cố trong đời sống của Chúa, trong đó Thánh Giuse đóng vai trò chính như là Đấng bảo trợ cho Người. Những bản văn của lễ này là Is 19,20-22 và Mt 2,13-15. Năm 1961, chỉ thị về việc sửa đổi các lịch phụng vụ riêng đã loại bỏ lễ này, ngoại trừ những nơi có sự liên kết đặc biệt của thánh lễ với biến cố này.
Năm 1920 “Hiệp Hội Thánh Giuse Chết Lành” đã được phép thêm vào những lời cầu nguyện đặc biệt đến Thánh Giuse trong lễ ngoại lịch cho người hấp hối và cho người chết lành ở nhà thờ của họ tại khu phố Trionfale, Rôma, và chẳng bao lâu phép này được mở rộng cho tất cả các linh mục và các nhà của hiệp hội.
Vào ngày 9/8/1922 thánh bộ Nghi Lễ đã thêm vào sách nghi thức Rôma những lời cầu khẩn đến Thánh Giuse trong nghi thức xức dầu thánh (nay là xức dầu bệnh nhân), trong nghi thức trao phó linh hồn đang hấp hối và trong những lời cầu nguyện cho người mới qua đời.
Năm 1964 Toà Thánh phê chuẩn cho vùng Canada nói tiếng Pháp những lời cầu khẩn Thánh Giuse trong nghi thức bí tích xức dầu bệnh nhân, trong kinh cầu phó dâng linh hồn người đang hấp hối và người vừa tắt thở. Năm 1972 Nghi Thức xức dầu và chăm sóc mục vụ cho bệnh nhân ban hành cho toàn thể Giáo Hội có nhắc tới Thánh Giuse trong những lời cầu nguyện phó dâng người hấp hối và người sinh thì.
Ít là từ năm 1815 nhiều thỉnh cầu được gởi về Rôma để xin ghi tên Thánh Giuse vào trong các lời cầu nguyện của thánh lễ, bao gồm trong Lễ quy (nay gọi là kinh nguyện Thánh Thể). Trong nhiều năm hàng triệu chữ ký đã được thu thập cho lời thỉnh cầu này. Năm 1868, Cha Lataste, OP, đã viết thư cho Đức Giáo Hoàng sẵn sàng dâng hiến chính mạng sống của mình cho việc công bố Thánh Giuse là bảo trợ của Hội Thánh và ghi tên người vào trong Lễ quy. Đức Piô IX đã chấp thuận đề nghị thứ nhất để đáp lại những thỉnh cầu của các nghị phụ công đồng Vaticanô I, nhưng người đã không ghi tên Thánh Giuse vào trong Lễ quy. Đức Lêô XIII đã vui mừng vì nhiều lời thỉnh cầu gởi đến người, nhưng người cho rằng không thích hợp để thay đổi một kinh nguyện phụng vụ đã có từ lâu đời. Đức Piô X đã trả lời bằng miệng với tổng giám mục Camilli rằng mặc dầu đề nghị bị từ chối năm 1892 nhưng người có thể tiếp tục thúc đẩy phong trào ghi tên Thánh Giuse vào trong Lễ quy.
Khi người ta đệ trình những thỉnh cầu này lên đức Gioan XXIII, người cảm thấy đã đến thời cơ thuận tiện và người đã thông báo cho thánh bộ Nghi Lễ biết ý kiến riêng của người về vấn đề này. Tại công đồng Vaticanô II, nhiều giám mục đã thỉnh cầu việc ghi danh bằng những lời đề nghị mạnh mẽ. Ngày 13/11/1962, Đức Giáo Hoàng đã gây ngạc nhiên cho các nghị phụ khi, qua hồng y Quốc vụ khanh, người thông báo sẽ thêm câu “và Thánh Giuse, bạn của đức Trinh nữ Maria” ngay liền sau tên Maria trong Lễ quy. Người ước mong quyết định này có hiệu lực vào ngày 8/12 như biểu lộ ước muốn của công đồng. Ngày 30/12 một ấn bản mới của sách lễ Roma đã ghi thêm tên Thánh Giuse trong đó. Sau đó, đức Gioan XXIII đã tặng nhà thờ Kalisz, Balan một trong những chiếc nhẫn của người để tưởng nhớ biến cố này và chiếc nhẫn này đã được gắn vào hình Thánh Giuse vào dịp lễ Thánh gia.
Tiếc rằng, 5 năm sau đó, ba Kinh nguyện Thánh Thể mới được ban hành lại không có tên Thánh Giuse.