Vào một đêm kia lửa bốc cháy từ một căn nhà và đứa bé trai nằm ở trên lầu buộc phải tìm cách leo lên mái nhà. Người cha đã chạy ra khỏi nhà và lờ mờ sau làn khói ông nhìn thấy đứa con đang đứng trên nóc nhà. Ông giang rộng đôi tay và la lên “Nhẩy xuống đây, ba đỡ con!” Ông biết rằng chỉ có cách đó thì con ông mới thoát chết. Nhưng vì khói dầy đặc, đứa nhỏ không thấy ba nó đâu mà chỉ nghe tiếng nói, nó hoảng sợ kêu lớn, “Con không thấy ba, làm sao con nhẩy xuống được.” Cha nó trả lời, “Nhưng ba thấy con là được rồi. Nhẩy xuống đi.” Và đứa bé đã nhắm mắt, liều nhẩy qua đám khói dầy đặc để lọt vào vòng tay yêu thương của cha nó và thoát chết.
Câu chuyện này minh họa một vài đặc tính của đức tin mà các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay đã xin với Chúa Giêsu: “Xin hãy tăng thêm đức tin cho chúng con!” Và đây cũng là dịp tốt để chúng ta nhìn lại định nghĩa về đức tin.
Trước hết, theo Giáo Lý Công Giáo, đức tin là một quà tặng của Thiên Chúa được thông ban cho linh hồn chúng ta qua ơn sủng, giúp cho chúng ta có thể tự nguyện hưởng ứng với sự mặc khải của Thiên Chúa được thấy qua lời của các ngôn sứ và sau cùng là sự giảng dạy của Chúa Giêsu.
Sự mặc khải của Thiên Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh, nhưng tin vào Thiên Chúa đòi hỏi sự tín thác – có thể nói đây là điều khó khăn nhất. Tiêu biểu là câu chuyện của ông Abraham, khi 75 tuổi, Thiên Chúa yêu cầu ông bỏ mọi sự để đi đến một vùng đất xa lạ, và ông đã tin tưởng vâng phục Thiên Chúa để thi hành (x. St 12:1).
Rồi khi hai vợ chồng ông đã lớn tuổi mà chưa có con, Thiên Chúa ban cho ông một người con trai, là Isaac. Khi Isaac được 13 tuổi, Thiên Chúa thử thách đức tin của ông bằng cách yêu cầu ông sát tế con duy nhất của ông để dâng lên cho Thiên Chúa và ông đã tin tưởng vâng phục thi hành. Ông Abraham xứng đáng được gọi là cha của những người có đức tin.
Trong thời Tân Ước, chúng ta có một gương mẫu đức tin khác là Đức Trinh Nữ Maria. Trong biến cố Truyền Tin, Trinh Nữ Maria đã tin vào lời của sứ thần Gabrien về việc thụ thai cách lạ lùng, và người đã liều mình chấp nhận vai trò làm mẹ Đấng Cứu Thế dù không hiểu rõ mọi sự sẽ diễn tiến thế nào. Chắc chắn rằng Đức Maria không biết rằng ba chục năm sau, con của mình, Đức Giêsu, sẽ chết cách thảm thương trên thập giá. Nhưng Trinh Nữ Maria đã tín thác vào Thiên Chúa.
Đặc tính thứ ba: đức tin phải phù hợp với lý trí và là một hành vi của ý chí. Ngoài thế giới hữu hình còn có thế giới vô hình với rất nhiều điều lạ thường, khó hiểu, mà nếu không dùng đến lý trí, người ta sẽ tin tưởng sai lầm – tin dị đoan. Khoa học dùng đến lý trí để giúp chúng ta tin cách đúng đắn, và tuyên xưng điều tin tưởng với tất cả ý chí. Khoa học không đối nghịch với đức tin. Thí dụ điển hình trong Kinh Thánh là khi ông Tôma được nhìn thấy Chúa Giêsu Phục Sinh xuất hiện với các thương tích, lý trí của ông cho biết đó thực sự là Chúa Kitô, và ông đã nói lên ý chí của ông qua lời tuyên xưng, “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con.”
Đặc tính thứ tư là đức tin tìm kiếm sự hiểu biết. Khi chúng ta tin, một cách tự nhiên chúng ta muốn hiểu biết sâu xa hơn nữa về lý do tại sao chúng ta tin. Và một khi tìm thấy các lý do đó, hay các chân lý đó, đức tin của chúng ta vững mạnh hơn và hiểu được ý nghĩa của điều tin tưởng.
Trong Phúc Âm, các tông đồ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng họ không hiểu rõ. Ngay cả sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh, các tông đồ còn hồ nghi. Nhờ Chúa “mở trí của họ để hiểu Kinh Thánh” (Lk 24:45), họ hiểu biết sâu đậm hơn, họ hiểu rằng sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là để chu toàn hoạch định của Thiên Chúa, và họ đã can đảm tuyên xưng đức tin dù có phải chết. Hành trình đức tin là chúng ta phải thắc mắc, tìm kiếm, và nhận ra ý nghĩa của điều tin tưởng.
Và sau cùng, đức tin phải được thể hiện trong đời sống. Câu chuyện người Samari tốt lành là một minh họa cho sống đức tin. Sự trắc ẩn của ông trước sự đau khổ của đồng loại đã khiến ông hành động: lau chùi vết máu, băng bó thương tích, đưa nạn nhân về chỗ an toàn để chăm sóc. Ông sống đức tin của mình một cách cụ thể.
Trong thời thế chiến II, Cha Maximilian Kolbe bị giam trong trại Auschwitz của Đức Quốc Xã và cha đã tự ý chịu chết thay cho một tù nhân có gia đình vợ con. Hành vi tự ý hy sinh này cho thấy đức tin không phải là một quan niệm nhưng là một lối sống nói lên những điều chúng ta tin tưởng.
Qua định nghĩa đức tin nói trên, chúng ta thấy hành vi đức tin khác với những công việc đạo đức, như đọc kinh, xem lễ, rước kiệu, chầu Thánh Thể, v.v. Công việc đạo đức là hình thức bên ngoài của một người tin vào Thiên Chúa, nhưng điều đó chưa đủ, vì việc đạo đức được thi hành đối với Thiên Chúa, còn hành vi đức tin là đối với tha nhân. Chỉ khi sống đức tin chúng ta mới thấy được giá trị của điều tin tưởng, và hành vi đức tin sẽ giúp đức tin thêm vững mạnh, và đó là điều cần thiết cho chúng ta trong thế giới hôm nay.
Trong xã hội, chúng ta chứng kiến nhiều biến cố xảy ra mà có thể làm lung lay đức tin của chúng ta. Nếu có Thiên Chúa tại sao có đau khổ? Tại sao có hận thù, chém giết? Tại sao người gian ác sống sung sướng hơn người hiền lành như hoàn cảnh thời ngôn sứ Kha-ba-cúc, trong bài đọc I, đến độ ông phải kêu cứu với Thiên Chúa?
Không ai có câu trả lời thỏa đáng, và nhiều người giữ đạo hình thức đã mất đức tin. Nhưng với sự tín thác vào Thiên Chúa, chúng ta tin rằng mọi biến cố xảy ra trong đời sống đều có mục đích của nó. Có thể đó là những thức tỉnh lý trí con người để tìm hiểu Thiên Chúa, hãy đi tìm Thiên Chúa để thấy được ý nghĩa của đời sống. Cũng có thể đó là những mời gọi con người đừng chìm đắm trong lạc thú của vật chất thế gian, đừng bám víu vào những quyền lực tạm bợ ở trần thế, đừng níu kéo những hạnh phúc mong manh vì tất cả sẽ qua đi, mà hãy đi tìm hạnh phúc vĩnh cửu là Thiên Chúa.
Trở về với thực tại, có bao giờ chúng ta thắc mắc: đức tin tôi đang có là của chính tôi hay của người khác?
Có người được rửa tội từ nhỏ và sống trong gia đình Công Giáo nên đức tin của họ là đức tin của cha mẹ truyền lại. Có người trở lại đạo khi lập gia đình nên có thể nói đức tin của họ là của người phối ngẫu. Nhưng có nhiều người sau khi trải qua những khốn khổ, những thăng trầm, những thất vọng, họ bắt đầu nghĩ đến Thượng Đế để thắc mắc, và khi tìm hiểu về Thiên Chúa họ đã tìm thấy chân lý. Có thể nói đức tin đó mới thực sự là của họ.
Dù chúng ta có đức tin như thế nào, điều cần thiết là chúng ta phải sống đức tin. Khi đem đức tin vào đời sống chúng ta mới thấy được giá trị của điều tin tưởng. Điển hình nhất là tình yêu. Một gia đình sống yêu thương nhau, noi gương Thiên Chúa Ba Ngôi, thì chắc chắn có hạnh phúc. Một người bị bệnh ung thư giai đoạn chót thì không tuyệt vọng nhờ sức mạnh của đức tin vào Thiên Chúa. Vợ chồng sẽ dễ tha thứ cho nhau, dù người kia có bất trung, nhờ tin tưởng rằng lòng thương xót, theo gương Thiên Chúa, sẽ biến đổi tâm hồn con người.
Bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở chúng ta về bổn phận của một người theo Chúa Kitô. Chúng ta cần chu toàn bổn phận thay vì nghĩ đến phần thưởng của một Kitô Hữu. Chúng ta cần nhìn lại đức tin của chính mình – do chính chúng ta thắc mắc, tìm kiếm và có được – chứ không phải của người khác hay của cha mẹ để lại, vì chỉ khi nào chúng ta thực sự tin, chúng ta mới dám sống cho điều tin tưởng đó.
Xin Thiên Chúa “tăng thêm đức tin” cho mọi người chúng ta.