Việc Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây, loan báo Tin Mừng chủ yếu là việc của Chúa Giêsu. Nhưng từ đây, việc này chủ yếu là của Giáo Hội, với sự hỗ trợ đắc lực của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó, khi từ biệt các môn đệ, Chúa Giêsu đã trao sứ mạng “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Hôm nay, sứ mạng này được trao cho thế hệ chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ để chúng ta chu toàn sứ mạng Chúa trao.
Những lời dạy cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi thăng thiên:
Tv này ca tụng vương quyền của Giavê Thiên Chúa. Phụng vụ hôm nay áp dụng Tv này cho Chúa Giêsu, Đấng được Thiên Chúa tôn lên làm vua và trao cho mọi quyền hành trên trời dưới đất.
Thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.
Bài Tin Mừng này có hai phần:
1. Những lời căn dặn cuối cùng của Chúa Giêsu (cc 46-49):
2. Chúa Giêsu lên trời (cc 50-53): Luca đã dùng cách viết của loài người để tạm diễn tả việc Chúa Giêsu siêu thăng. Người siêu thăng không có nghĩa là Người rời bỏ một nơi (trái đất) để đến một nơi khác (trời), mà là
Thánh Lễ hôm nay có 2 bài đọc của cùng một tác giả là Thánh Luca: Bài đọc 3 trích phần cuối của quyển Tin Mừng Luca, và bài đọc 2 trích phần đầu của sách Công vụ. Mà chúng ta biết thánh Luca viết một tác phẩm gồm 2 tập: tập I là sách Tin Mừng viết về sứ mạng của Chúa Giêsu bắt đầu từ Galilê đến Giêrusalem, tập II là sách Công vụ viết về sứ mạng của Giáo Hội bắt đầu từ Giêrusalem đến toàn thế giới. Vậy nếu đặt 2 bài đọc của Thánh lễ này vào toàn bộ tác phẩm của thánh Luca thì chúng ta sẽ hiểu rằng tác giả muốn nói: việc Chúa Giêsu thăng thiên là cái bản lề giữa hai sứ mạng đó, hay nói cách khác, lúc Chúa Giêsu thăng thiên là lúc Chúa Giêsu bàn giao sứ mạng lại cho Giáo Hội. Bây giờ chúng ta hãy dựa vào một số chi tiết trong hai bài đọc ấy để tìm hiểu sứ mạng của Giáo Hội và cũng là của chúng ta.
Trước hết, sứ mạng ấy là gì? Thưa là sứ mạng “làm chứng”, như lời Chúa Giêsu nói “Chúng con sẽ là chứng nhân của Thầy”. Chứng nhân, hay người làm chứng, là kẻ nghe gì nói y lại như vậy, thấy sao thuật y lại như vậy, rất đúng, rất trung thực.
Chúng ta làm chứng cho ai? Thưa cho Chúa Giêsu. Mà theo cách mô tả của thánh Luca, Chúa Giêsu nay đã lên trời, có một đám mây che khuất Người. Không biết có thực ngày xưa đã có một đám mây từ trời đáp xuống như một chiếc dĩa bay, rồi hai thiên thần mời Chúa Giêsu bước lên đứng trên chiếc dĩa bay đó, rồi sau đó chiếc dĩa bay bằng mây từ từ cất lên cao hay không. Điều này không chắc, vì 3 thánh sử kia, tức Matthêu, Máccô và Gioan đều không hề nói về đám mây đó. Thực ra, qua hình ảnh đám mây che khuất, thánh Luca muốn nói rằng Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa, mắt người phàm không còn trông thấy được Người nữa. Nhưng những kẻ làm chứng cho Người phải làm chứng thế nào để người ta như là thấy được Người thực sự.
Chúng ta làm chứng thế nào? Sách Công vụ có ghi một chi tiết: Đang lúc các tông đồ cứ dõi mắt đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy thì hai thiên thần nói với họ: “Hỡi người Galilê, sao còn mãi đứng nhìn trời”. Câu nói bỏ lửng nhưng có nhiều ngụ ý. Chúng ta có thể đoán ra được những ngụ ý sau:
Và chúng ta sẽ làm chứng cho Chúa Giêsu ở đâu? Chúa Giêsu đã nói rõ: “Chúng con sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, Giuđê, Samari và cho đến tận cùng thế giới”. Giêrusalem là nơi lúc ấy các tông đồ đang ở, Giuđê xa hơn một chút nhưng cũng quen thuộc vì có nhiều người đã tin Chúa, Samari tuy gần mà xa vì dân miền đó tuy biết Chúa Giêsu nhưng không có cảm tình với Người, đến tận cùng thế giới là mục tiêu xa nhất và bao quát nhất. Khi vẽ một bản đồ hành trình làm chứng như thế, ý Chúa Giêsu là hãy bắt đầu làm chứng cho Người ngay từ trong nội bộ của mình, rồi từ từ mới lan dần ra. Chúng ta thấy các tông đồ đã thực hiện đúng như thế: nhờ cộng đoàn Giêrusalem sống đoàn kết hiệp nhất, tương thân tương trợ mà người ngoài nhìn vào đã mến phục và xin gia nhập Giáo Hội, thế rồi từ Giêrusalem Giáo Hội lan sang Giuđê, lan sang Samari, lan sang Antiôkia và dần dần tỏa ra khắp thế giới.
Các chi tiết trong hai bài đọc Tin Mừng và sách Công vụ giúp chúng ta thấy được sứ điệp Lời Chúa muốn gởi đến chúng ta hôm nay:
Kể từ khi Chúa Giêsu Thăng thiên, Người không còn hiện diện cách hữu hình giữa các môn đệ nữa. Nhưng sự vắng mặt thể lý không có nghĩa là không còn hiện diện nữa.
Thực ra nhiều khi sự hiện diện thế lý chẳng là gì cả. Hai người sống chung một nhà, ăn chung một bàn, và thậm chí ngủ chung một giường nhưng vẫn cảm thấy xa nhau vạn dậm, bởi vì lòng và trí họ quá xa nhau. Như người ta nói “đồng sàng, dị mộng” (chung giường nhưng giấc mộng khác nhau).
Trái lại dù thể xác xa cách nhau vạn dậm nhưng người ta vẫn có thể cảm thấy rất gần nhau, miễn là người ta thương nhau và hiểu nhau. Có khi nhờ xa nhau một thời gian mà người ta lại thương nhau hơn và hiểu nhau hơn.
Hơn nữa, trong thời gian ta hiện diện bên cạnh một người thân, nếu đó là một sự hiện diện trọn vẹn thì khi xa nhau, chính sự vắng mặt ấy lại sinh nhiều hoa trái, bởi vì những kỷ niệm lúc gần nhau và tình nghĩa thắm thiết lúc sống bên nhau sẽ còn tiếp tục nuôi dưỡng người thân ấy. Như thế, đối với những người thân nhau thì cả sự hiện diện lẫn sự vắng mặt đều là những món quà.
Từ khi thăng thiên, sự hiện diện của Chúa Giêsu không còn bị hạn chế về không gian và thời gian nữa, nhưng nhờ đó mà Người có thể hiện diện ở khắp nơi và trong mọi lúc.
Các kitô hữu đầu tiên đã hiểu rất rõ điều này. Họ biết Chúa Giêsu vẫn ở bên họ, tuy không cùng một cách như trước nữa. Họ tin rằng Người đang chia xẻ cuộc sống của họ; họ còn tin rằng cái chết sẽ giúp họ được hợp nhất mãi mãi với Người trong vinh quang.
Có lẽ nhiều người cho rằng các tông đồ ngày xưa hạnh phúc hơn mình bây giờ, bởi vì các vị ấy đã được nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhưng các sách Tin Mừng viết rằng dù mắt họ nhìn thấy Chúa Giêsu nhưng họ vẫn chưa hiểu Người là ai. Họ chỉ hiểu được Người khi đọc sách Thánh và khi dự lễ bẻ bánh.
Đọc sách Thánh và dự lễ Bẻ bánh, đó là những phương tiện giúp nhận ra Chúa Giêsu. Mà những phương tiện này chúng ta ngày nay cũng có. Cho nên, xét về vấn đề nhận ra Chúa Giêsu bằng đức tin thì chúng ta ngày nay cũng chẳng thua thiệt gì hơn so với các tông đồ ngày xưa.
Ngày xưa Chúa Giêsu đã trông cậy vào các tông đồ để Tin Mừng được rao giảng khắp nơi và được mọi người sống theo Tin Mừng ấy. Ngày nay Chúa Giêsu cũng trông cậy nơi chúng ta như thế. Chúng ta phải làm chứng về Người cho mọi người trong thế giới hôm nay. (FM)
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các đấng ấy đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đă chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.
Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.
Đã qua 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Đức Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: “Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người!”
Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”.
*
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen. (TP, năm C)
Đức Kitô phục sinh đã ở lại với các môn đệ của Người 40 ngày sau khi Người từ cõi chết sống lại. Việc Chúa phục sinh sống với các môn đệ 40 ngày là để Người có thời gian dậy bảo, động viên, an ủi và chỉ vẽ thêm cho các môn đệ trước khi Người ra đi về cùng Cha của Người (Cv 1, 3).Lần cuối cùng trước khi rời các ông, Chúa Giêsu đang lúc đồng bàn với các ông, đã truyền cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần trước khi chia tay nhau đi khắp nơi giảng Tin Mừng cứu độ (Cv 1, 8).
Rồi hôm nay, Chúa phục sinh dẫn các môn đệ lên núi cây Dầu, trao sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho các ông và một cách nào đó cho toàn thể Giáo Hội (Mt 28, 16-20). Để ban ủi an, khích lệ các ông, Chúa phục sinh giơ tay chúc lành tức đổ ơn huệ xuống trên các ông, và Chúa cất mình lên trời trước mặt các ông (Cv 1, 9-12).
1. Tại sao các ngươi cứ đứng đó mà nhìn lên trời:
Sự kiện Chúa về trời làm cho các môn đệ bỡ ngỡ, các đấng không khỏi bàng hoàng dù rằng Chúa đã nói trước với các ông, đã căn dặn các ông, Người về với Chúa Cha, Người ra đi thì ích lợi hơn cho các ông.:”...Thầy ra đi thì Đấng bầu chữa mới đến với các con” (Ga 16, 6-7).Vì sứ mệnh của Chúa Thánh Thần là dậy dỗ, an ủi các tông đồ, soi sáng và thêm sức mạnh cho các ông để các ông có sức mạnh, lòng đại độ, sự quả cảm mà ra đi rao giảng Tin Mừng (Ga 14, 26; 15, 26-27).
Nhưng trước khi chia tay đi rao giảng, Chúa phục sinh đã căn dặn các tông đồ hết sức cẩn thận: “Đừng rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy ở tại đó cùng với Mẹ Maria để đón nhận Chúa Thánh Thần “.
Việc Chúa Lên trời hay nói một cách cụ thể hơn là Người ra đi, trở về, kết hiệp với Chúa Cha để thực hiện lời hứa ban Đấng phù trợ tới cho các môn đệ và cho toàn Giáo Hội là một mầu nhiệm của lòng tin vì hôm nay chấm dứt một giai đoạn Chúa phục sinh hiện diện, chứng minh cho các môn đệ thấy rằng mình vẫn sống giữa các ông (Cv 1, 3).
Thời gian 40 ngày là giai đoạn Chúa minh chứng cho các tông đồ, Người đang sống cách hữu hình, đang làm những việc cụ thể, cùng trao đổi, bàn bạc, cùng ăn, cùng sinh hoạt với các môn đệ. Giờ đây, Chúa về trời là để ban Thánh Thần cho các môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội. Đây không phải là lúc các môn đệ tiếc nuối cái mơ ước ám ảnh, Chúa của các ông sẽ khôi phục lại vương quốc Israen, để các ông ăn trên ngồi trước các người khác (Cv 1,6).
Cái thực tế mà các môn đệ phải thuộc nằm làu là “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Ai tin, anh em hãy làm phép rửa cho Họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ những Điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 16-20). Chúa về trời, các môn đệ vẫn còn bỡ ngỡ cùng với mọi người ở Galilêa. Nhưng, Chúa về trời là một mối phúc cho các Môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội vì Chúa có về trời Thánh Thần mới được ban xuống. Chúa về trời, nhưng dứt khoát các môn đệ sẽ không bơ vơ vì Chúa hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho tới tận thế
2. Chúa về trời là một mối phúc lớn lao:
Thật ra, Chúa về trời mang lại cho nhân loại, cho Giáo Hội và cho các tông đồ một mối Phúc lớn lao vì nếu Chúa không ra đi thì Đấng bàu chữa không đến. Chúa về trời, Người đã làm tròn lời hứa ban Thánh Thần và trao quyền năng cho các tông đồ, cho Giáo Hội: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân...Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 17-20).
Lệnh truyền của Chúa phục sinh đã được thể hiện ngay nơi con người của Chúa, Chúa đã ban quyền năng cho các tông đồ, qua đó các đấng ấy có đủ mọi uy quyền thiêng liêng phục vụ mọi người. Chúa ban Thánh Thần để giúp các môn đệ kiên cường làm chứng cho Chúa phục sinh và loan báo Tin Mừng. Chúa ban Thánh Thần để Giáo Hội luôn bền vững, trung kiên làm tròn sứ mạng truyền giáo.
Dầu con người không thể nhìn thấy Chúa bằng xương bằng thịt, nhìn thấy Chúa cách hữu hình, nhưng Chúa vẫn có mặt với Giáo Hội ở khắp mọi nơi cho tới ngày cùng tận. Lời hứa của Chúa ở cùng môn đệ và nhân loại cho đến ngày tận thế là lời bảo đảm vững chắc nhất về sự hiện diện của Chúa trong Giáo Hội muôn muôn đời. Chúa Giêsu Phục sinh luôn đồng hành với Giáo Hội, với nhân loại, với các tông đồ trên vạn nẻo đường truyền giáo. Sứ mạng truyền giáo, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô Phục sinh cho nhân loại là lệnh truyền khẩn thiết nhất và quyết liệt nhất Chúa trao cho các môn đệ và cho Giáo Hội. Chúa đang trao, Chúa đang chuyền một cây gậy, một ngọn lửa đức tin để các tông đồ và Giáo Hội thay nhau liên tục chuyền gậy và đốt lên ngọn lửa tình yêu cho mọi người để mọi người nhận ra bộ mặt đầy yêu thương của Chúa cứu thế.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa lời Chúa: “Các con là muối ướp cho mọi người...Các con là ánh sáng cho toàn nhân loại, là thành phố xây trên ngọn đồi không thể giấu được... ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen cha các con ở trên trời” (Mt 5,13-16)
Lạy Chúa Giêsu, công việc cứu thế của Chúa được tượng trưng như một chiếc gậy, Chúa đã chuyền cho các môn đệ cách đây 2002 năm để các môn đệ tiếp tục chuyền đi. Và cứ như thế, chiếc gậy được chuyền đi cho tới ngày tận thế. (Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT, Vietcatholic)
Tháng 7 năm 1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi cha Vania thi hành nghĩa vụ linh mục, cha đã ngã gục dưới làn mưa đạn. Trong lá thư cuối cùng người viết cho cha mẹ già có những dòng sau đây:
“Cha mẹ yêu dấu! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống được để trở về với cha mẹ nữa hay không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước kia rất nhiều. Thế nhưng con không lo sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng cũng đừng buồn phiền về số phận của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều thử thách. Thế nhưng, con tuyên bố với họ là con sẽ không sợ rao giảng Tin Mừng và tình yêu của Chúa Kitô. Đây là một sứ mệnh cao cả và con hãnh diện được tiến bước theo mệnh lệnh của Chúa. Con không xấu hổ rao giảng về Chúa Kitô. Các phép lạ Chúa Kitô làm đều minh chứng rằng có Thiên Chúa, do đó con sẽ mạnh dạn tiếp tục gieo vãi hạt giống Tin Mừng, vì đó là điều Chúa Thánh Thần phán bảo con.”
Rao giảng Tin Mừng là sứ vụ Chúa Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Người, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi Người xa cách con cái Người, Người đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các tông đồ: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dậy bảo họ luôn giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.
Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mệnh đó. Mặc dù Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách; nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin Mừng, vì Nước Trời. Lòng can đảm, chí trung thành đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mỗi người như lời Người đã phán: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho tới tận thế. Chính tên Người cũng đã minh chứng điều đó, Em-ma-nu-en = Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Lạy Chúa, Lời Chúa đã nhắc nhở cho mỗi người chúng con ý thức về sứ mệnh Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết hăng say thi hành mệnh lệnh đó trong cuộc sống hằng ngày để ánh sáng Tin Mừng được chiếu tỏa khắp nơi. (Sr Margareta Maria Hiền, Vietcatholic)
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Kitô đã phải trải qua con đường thập giá rồi mới bước vào vinh quang phục sinh. Với ước mong sống trọn vẹn vai trò chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:
1. Chúa Giêsu hứa ban Thánh thần cho các tông đồ / để các đấng làm chứng cho Chúa đến tận cùng trái đất / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cũng ban Thánh thần / giúp chúng ta trở nên những chứng nhân can trường cho Thiên Chúa là tình yêu.
2. Rao giảng Chúa Giêsu Kitô cho hết thảy mọi nước mọi dân / đặc biệt cho các dân tộc tại lục địa châu Á mênh mông / là một việc khẩn cấp trong thiên niên kỷ thứ ba này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều người / dám xả thân cho công cuộc rao giảng Tin mừng cứu độ.
3. Đức tin Kitô giáo hội nhập vào văn hóa Châu Á / là một việc làm hết sức quan trọng trong việc giới thiệu Đức Kitô cho một châu Á đa chủng tộc / đa tôn giáo và đa văn hóa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà truyền giáo / luôn quan tâm đặc biệt đến công việc hệ trọng này.
4. Học hỏi về Giáo hội là bổn phận quan trọng của người Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tận dụng mọi cơ hội thuận tiện để học hỏi sâu rộng về Giáo Hội / nhờ đó có thể tham gia tích cực vào công cuộc rao giảng Tin mừng.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, trước khi được rước lên trời, Chúa đã dạy chúng con phải rao giảng Tin mừng cho mọi loài thọ tạo. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con có thể thực hiện đến nơi đến chốn lệnh truyền quan trọng này. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
- Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu phục sinh đang ở bên cạnh Chúa Cha để làm trung gian cho chúng ta. Chúng ta hãy nhờ Người và với Người dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.
Hôm nay Chúa Giêsu lặp lại với anh chị em lời Người đã bảo các môn đệ ngày xưa: “Anh em hãy đi đến với muôn dân ”, “Anh em hãy làm chứng cho Thầy”. Chúc anh chị em bình an.