Chúa chúng ta nói bảy lần từ trên Thập Giá; đây là Bảy Lời Cuối Cùng của Người. Trong Thánh Kinh chỉ có lời trăn trối của ba người được ghi lại khi hấp hối là: Israel, Mai-sen và Stephanô. Lý do có lẽ không ai khác có vai vế đại diện quan trọng tiêu biểu như ba vị này. Israel là ông tổ của toàn thể dân Israen; Mai-sen, người tiên khởi ban lề luật; Stephanô, vị Tử Đạo tiên khởi của Kitô giáo. Lời trăn trối lúc gần chết của mỗi người này đều là khởi sự của những điều rất quan trọng trong lịch sử tương quan giữa Thiên Chúa với con người. Ngay cả những lời cuối của Phêrô hay của Phaolô hoặc của Gioan cũng chẳng phải là cái để đời cho nhân loại, vì không có thần khí nào đã từng hướng dẫn ngòi bút của họ để tỏ bày những bí mật từ môi miệng họ lúc hấp hối. Và tuy thế lòng con người luôn luôn mong muốn nghe biết một người nghĩ gì ở tình cảnh rất quen thuộc và lại rất kỳ bí, đó là lúc một người đang hấp hối.
Bởi lòng nhân lành của Người, Chúa chúng ta đã để lại những Ý Nghĩ của Người lúc đang hấp hối, vì Người – hơn cả Israel, hơn cả Mai-sen, hơn cả Stephanô – là đại diện của toàn thể nhân loại. Vào giờ cao điểm này Người đã gọi tất cả các con cái của Người đến toà giảng cây Thập Giá, và mỗi lời Người nói với họ đều có mục đích phổ quát muôn đời và an ủi trường sinh. Chưa hề có vị giảng thuyết nào như Đức Kitô lúc hấp hối; chưa bao giờ có một cộng đoàn giống như lúc họ tụ họp chung quanh tòa giảng của Cây Thập Giá; chưa hề bao giờ có một bài giảng như Bảy Lời Cuối.
Những người thi hành án tử nghĩ là Người sẽ kêu la gầm thét, vì bất cứ ai bi đóng đinh vào Thập Giá đều đã làm như thế trước khi đến lượt Người. Seneca đã ghi lại rằng những người bị đóng đinh chửi thề vì đã sinh ra đời, chửi những người hành quyết họ, chửi mẹ của họ, và nhổ vào những người đứng nhìn xem họ. Cicero đã viết rằng đôi khi cần cắt lưỡi những người bị đóng đinh để họ không chửi bới phạm thượng. Bởi thế những người hành quyết tin là họ sẽ nghe được một vài lời, nhưng lại không phải là những lời mà họ đã từng nghe được. Những Luật sĩ và Pharisiêu đã chờ đợi phản ứng của Người, và họ tin rất chắc chắn là Người, Đấng đã từng rao giảng “Yêu kẻ thù nghịch với ngươi” và “Làm ơn cho những người thù ghét ngươi” bây giờ sẽ quên hết bài Tin Mừng ấy với chân tay đang bị đóng đinh ghìm giữ. Họ cảm thấy rằng nỗi đau đớn hết sức cạn kiệt sẽ bay hết theo gió bất cứ quyế tâm nào Người còn có thể có để giữ được nét dung mạo bình thản của Người. Ai cũng nghĩ là Người sẽ la hét lên, nhưng không ai, ngoại trừ ba người đứng dưới chân Thập Giá, lại ngờ là được nghe điều họ nghe thấy. Như một số cây có hương thơm tỏa ra khi chiếc rìu chặt vào thân chúng, Trái Tim Vĩ Đại trên Cây Tình Yêu đã trào đổ ra từ thẩm cung không phải là tiếng la thét nhưng là lời cầu nguyện – lời nguyện êm đềm, nhẹ nhàng, dịu ngọt để bào chữa và tha thứ:
Lạy Cha, xin tha cho họ; vì họ không biết việc họ làm (Lc 23:34)
Tha thứ cho ai? Tha thứ cho kẻ thù ư? Cho người lính đã tát Người nơi tòa án lúc ở tại nhà của Caipha ư? Cho Philatô một chính trị gia, luận án một Thiên Chúa để không làm mất lòng Caesar ư? Cho Herod người đã khoác chiếc áo làm trò chế diễu Người ư? Cho những người lính đã treo Vua muôn Vua trên cây gỗ dựng đứng giữa trời và đất ư? Tha cho họ sao? Tại sao lại tha cho họ? Bởi vì họ biết việc họ làm ư? Không, nhưng bởi vì họ không biết việc họ làm. Nếu họ biết việc họ đã làm mà vẫn cứ tiếp tục làm; nếu họ biết việc họ làm là một tội tầy trời mà vẫn cứ tiếp tục giết Sự Sống; nếu họ biết cái công lý bẩn thỉu của họ đến như thế mà họ vẫn cố tình muốn thả Barabbas hơn là tha Đức Kitô; nếu họ biết thật giã man chừng nào để đóng đinh đôi bàn chân đã từng rảo bước khắp các ngọn đồi của mọi thời và ghim đôi bàn tay của Người trên cây gỗ; nếu họ biết điều họ đang làm mà vẫn cứ tiếp tục làm, không quan tâm gì đến việc đổ Máu người có thể cứu họ, thì họ sẽ không bao giờ được cứu chuộc! Đúng hơn, họ sẽ bị luận phạt! Chỉ vì không nhận thức được tội của họ ghê gớm đến chừng nào khiến họ thấy tái tê trong lòng khi nghe tiếng kêu vang lên từ Thập Giá muốn họ được cứu. Không phải sự khôn ngoan hiểu biết cứu họ, mà là vì sự mù tối không biết khiến họ được cứu chữa.
Những người sắp chết với án tử hình thì một là họ nói họ vô tội, hoặc là lên án những người kết án tử hình cho họ, hay là xin sự tha thứ. Nhưng Đấng Hoàn Toàn Vô Tội đã không xin sự tha thứ; Như Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người Người nới rộng ơn tha thứ. Như Linh Mục Thượng Phẩm Đấng ban Chính Mình làm lễ hiến tế đã cầu khẩn cho những người có tội. Một cách nào đó, những lời tha thứ được nói lên hai lần: một lần nơi vườn địa đàng, khi Thiên Chúa hứa ban ơn Cứu Chuộc qua “miêu duệ của người phụ nữ” người sẽ đạp dập đầu con rắn thần dữ; bây giờ khi Thiên Chúa trong vai trò một Tôi Tớ Đau Khổ làm trọn lời hứa đó. Thật tuyệt vời Tình Yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Lời Đầu Tiên từ Cây Thập Giá mà tiếng vang được vọng tới muôn thế hệ trong lịch sử, như Stephanô xin Thiên Chúa đừng chấp tội của những người đã ném đá người; và Phaolô đã viết:
Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. (2Tim 4:16)
Nhưng lời cầu xin của Stephanô và của Phaolô không giống như của Chúa, vì ơn tha thứ được nhìn nhận cùng với hiến tế của Người. Chính Người là Linh Mục và là Của Lễ Hiến Tế, Người công chính như Linh Mục, phủ phục như một Của Lễ Hiến Tế. Bởi thế Người cầu bầu và hiến dâng chính Bản Thân vì tội lỗi. Máu của Abel kêu đòi sự thịnh nộ của Thiên Chúa để đòi nợ tội sát nhân của Cain; máu của Abel mới đổ ra bởi sự ghen tức của những người anh em thuộc dòng dõi Cain được đưa nâng lên tới cơn thịnh nộ và cầu khẩn được thứ tha.
Ngày chung phán được diễn ra trước trên đồi Can-vê: Vị Quan Tòa ngồi ở giữa, và hai loại người ở hai bên: một bên được cứu và một bên bị hư mất, một bên là chiên một bên là dê. Khi Người đến trong vinh quang để phán xét nhân loại, Thập Giá cũng sẽ hiện diện ở đó với Người, nhưng là huy chương chứ không phải ô nhục.
Hai tên trộm cướp bị đóng đinh bên tả và bên hữu của Người thoạt đầu đã nói phạm thượng và chửi thề. Đau khổ không nhất thiết làm cho con người nên tốt hơn; nó có thể làm tâm hồn bay bổng hay bị thiêu đốt, trừ khi con người được thanh luyện nhờ nhìn thấy giá trị cứu chuộc của nó. Đau khổ thiếu vắng tinh thần thiêng liêng có thể làm cho con người hư hỏng. Tên trộm bên tả chắc chắn đã không tốt hơn vì đau khổ. Tên trộm bên tả đã xin được đưa xuống khỏi thập giá. Nhưng tên trộm bên hữu, rõ ràng cảm nhận được lời cầu bầu đầy linh mục tính của Đấng Cứu Thế, đã xin được đưa lên. Chỉnh sửa cho anh bạn đồng tội vì sự phạm thượng của hắn, anh nói:
"Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái! " (Lc 23:40-41)
Thế rồi đặt mình trước Tình Thương của Thiên Chúa, anh khẩn xin ơn tha thứ.
Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi! (Lc 23:42)
Một người đang hấp hối đã xin một người khác cũng đang hấp hối để được sự sống đời đời; một người không có gì đã xin một người nghèo ban cho Nước Trời; một người trộm cướp đứng trước ngưỡng cửa sự chết đã xin được chết như tên trộm cướp và ăn trộm được nước trời. Người ta có thể nghĩ rằng một thánh nhân sẽ là linh hồn đầu tiên mua chuộc được từ trên đồi Can-vê bởi những đồng tiền thấm đỏ ơn Cứu Chuộc, nhưng trong chương trình của Thiên Chúa thì trái lại, đó lại là một tên trộm cướp được hộ tống Vua muôn vua đi vào nước Thiên Đường. Nếu Chúa chúng ta đến trần thế chỉ như một nhà giáo, thì trên trộm cướp đã chẳng xin ơn tha thứ. Nhưng vì lời kêu xin của tên trộm cướp chạm đến lý do Người đến trần gian, đó là cứu các linh hồn, tên trộm cướp đó đã nghe ngay được lời đáp lại:
Tôi bảo thật điều này: hôm nay anh sẽ được ở trên thiên đàng với Tôi. (Lc 23:43)
Đó là lời cầu nguyện sau cùng của tên trộm cướp, có lẽ đó cũng là lời cầu nguyện tiên khởi. Anh đã gõ một lần, tìm một lần, xin một lần, bất chấp mọi cái, và tìm được mọi cái. Khi ngay cả các môn đệ đã nghi nan và chỉ có một người hiện diện nơi Cây Thập Giá, trên trộm đã chiếm giữ và nhìn nhận Người như là Đấng Cứu Thế. Giả như Barabbas đã có mặt nơi pháp trường, thì làm sao mà ông lại mong là ông không được tha, và làm sao ông có thể nghe được những lời của vị Linh Mục Thượng Phẩm đầy lòng trắc ẩn. Thực sự, mọi phần thuộc Thân Thể của Đức Kitô bị trói chặt bởi những cái đinh, hay sự hành hạ đau đớn bởi roi đòn và gai nhọn, trừ Trái Tim và lưỡi của Người – những phần thân thể này công bố ơn tha thứ ngay hôm đó. Nhưng ai có thể tha tội, ngoài trừ Thiên Chúa? Và ai có thể hứa ban Thiên Đường ngoài trừ Người, Đấng tự bản tính là muôn đời với Thiên Đường?
Thông điệp thứ ba của Chúa chúng ta từ trên Thập Giá chứa đựng giống như lời đã được dùng để nói với Mẹ của Người tại đám cưới ở Cana. Khi Đức Mẹ, vì muốn tránh tai tiếng cho gia chủ, đã làm một lời thỉnh cầu đơn giản là họ hết rượu cho khách dự tiệc rồi, Người trả lời: Bà ơi, điều đó liên quan gì đến Tôi khi Giờ của Tôi chưa đến?” Chúa chúng ta luôn dùng từ ngữ “Giờ” để nói khi liên quan tới Cuộc Khổ Nạn và cái chết của Người.
Trong ngôn ngữ của chúng ta, Chúa đã nói với Mẹ của Người ở Cana: “Má ơi, má có biết rằng má đang yêu cầu Con công bố Thiên Tính của Con – nghĩa là xuất hiện trước thế giới như là Con Thiên Chúa, và chứng minh Thiên Tính của Con bằng những việc làm và phép lạ không? Ngay khi Con làm thế là Con khởi sự vào con đường hoàng cung dẫn đến Thập Giá. Khi đó con không còn được nhận diện giữa mọi người như một người con của bác thợ mộc, nhưng là Con Thiên Chúa, đó là bước khởi đầu đưa đến Can-vê. Giờ đó của Con chưa đến; nhưng má có muốn Con khởi sự không? Có phải má muốn Con đi đến với Thập Giá không? Nếu Con làm thế, tình liên hệ giữa Má với Con sẽ thay đổi. Bây giờ má là mẹ của Con. Mọi người trong ngôi làng nhỏ này ở đâu ai cũng biết má là mẹ của Giêsu. Nhưng nếu bây giờ Con xuất hiện như Đấng Cứu Chuộc nhân loại, và khởi sự công trình Cứu Chuộc, thì vai trò của má cũng thay đổi. Một khi Con bắt tay vào việc cứu chuộc nhân loại, má sẽ không phải chỉ là mẹ của Con nữa, nhưng má cũng sẽ là mẹ của mọi người mà Con cứu chuộc. Con là đầu của nhân loại; ngay khi Con vừa cứu thân thể của nhân loại, má là mẹ của cái đầu cũng sẽ trở thành mẹ của Mầu Nhiệm Thân Thể của Con là Giáo Hội. Má sẽ trở thành người Mẹ hoàn vũ, là Eva mới, giống như Con là Adam mới.
“Để xác định vai trò mà má sẽ có trong chương trình Cứu Chuộc, bây giờ con sẽ gắn tặng cho má tước hiệu người mẹ hoàn vũ; Con gọi má là: “Bà.” Má chính là người mà Con đã nói đến khi Con nói với Satan rằng Ta sẽ đặt mối thù giữa ngươi và người phụ nữ, giữa miêu duệ của ngươi và miêu duệ của người phụ nữ, đó chính là Con. Bây giờ Con phong cho má tước hiệu “Bà” lớn lao đó. Và Con sẽ phong tước hiệu ấy cho má một lần nữa khi Giờ của Con đến và khi Con bị treo lên trên Thập Giá giống như con đại bàng bị thương tích. Chúng ta cùng làm việc chung với nhau trong công cuộc Cứu Chuộc này. Cái của má là của Con. Từ Giờ phút này trở đi, chúng ta không chỉ còn là Maria và Giêsu nữa, chúng ta là Adam và Evà mới, khởi đầu cho một nhân loại mới, đổi nước của tội lỗi thành rượu của sự sống. Biết như thế thưa Má, vậy thì má có bằng lòng chuẩn bị cho Thập Giá và để Con đi đến đồi Can-vê không?
Chúa của chúng ta đã trình bày với Mẹ Maria không chỉ đơn giản như một sự lựa chọn làm phép lạ hay không làm, đúng hơn là Người hỏi đến sự sẵn sàng của Mẹ để sai Người đi đến cái chết. Người đã nói rất rõ là thế gian sẽ không dung thứ cho Thiên Tính của Người, nghĩa là nếu Người biến nước thành rượu, thì một ngày nào đó rượu sẽ trở thành máu.
Ba năm trôi qua. Chúa của chúng ta lúc này nhìn từ trên cây Thập Giá xuống tới hai thụ tạo thân yêu của Người ở trần gian – Gioan và Mẹ của Người. Người đã nhớ lại điệp ngữ ở Cana, và nói với Mẹ của chúng ta với cùng tước hiệu mà Người đã gắn tặng cho Mẹ lúc ở tiệc cưới. Người gọi Mẹ là “Bà.” Đó là lần truyền tin thứ hai. Với cái nhìn từ ánh mắt bị phủ đầy bụi và đầu mang vòng gai nhọn, Người đã tha thiết trìu mến nhìn Mẹ, người đã bằng lòng để cho Người đi tới Thập Giá và người bây giờ đang đứng dưới chân thập giá như người đồng cộng tác trong công cuộc Cứu Chuộc; và Người nói: “Thưa Bà, đây là con bà.” Người cũng không gọi đích danh Gioan; làm như thế là nói ông là con của Zebedê chứ không phải là của ai khác. Nhưng, gọi cách chung chung không nêu danh tánh, Gioan đứng đó đại diện cho toàn thể nhân loại. Nhìn vào người môn đệ yêu dấu người nói: “Đây là mẹ con.”
Đây là câu trả lời, sau nhiều năm, cho những lời kỳ bí trong Tin Mừng về Nhập Thể nói rằng Đức Mẹ đã đặt “con đầu lòng” của người trong máng cỏ. Như thế có phải là Đức Mẹ còn có những đứa con khác hay sao? Đúng vậy, nhưng không phải là con theo nghĩa thể xác. Chúa của chúng ta và Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu Kitô là Người Con đặc biệt duy nhất của Đức Mẹ theo thể xác. Nhưng Đức Mẹ còn có những người con khác, không theo thể xác mà là trong tinh thần.
Có hai giai đoạn quan trọng trong liên hệ của Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria, giai đoạn thứ nhất từ lúc trong Nôi đến tiệc cưới Cana, và giai đoạn thứ hai, từ Cana đến Thập Giá. Ở giai đoạn thứ nhất, mẹ là mẹ của Giêsu; ở giai đoạn hai, mẹ bắt đầu là mẹ của tất cả những người được cứu chuộc – nói cách khác, mẹ trở nên mẹ của nhân loại. Từ Belem tới Cana, mẹ Maria có Giêsu, giống như một người mẹ có đứa con trai; mẹ đã từng gọi Người cách thân mật là “Con ơi,” lúc Người lên mười hai tuổi, dường như đó là cách mẹ thường gọi Người. Người đã sống với mẹ suốt ba mươi năm, được mẹ bồng ẵm trốn chạy sang Ai-cập, và mẹ là của Người, ngay cả lúc hai người cùng bước vào phòng tiệc cưới, tên của mẹ đã được nhắc đến trước: “Maria, mẹ của Đức Giêsu, cũng ở đó.”
Nhưng từ Cana trở đi, khoảng phân cách lớn dần, chính đức Mẹ đã giúp tạo ra. Từ Cana, một năm sau, như một người mẹ tận tình yêu con, mẹ đã đi theo Chúa trong tất cả cuộc rao giảng của Người. Người ta từng báo cho Chúa là mẹ của Người đang tìm Người. Chúa dường như không quan tâm và quay sang đám đông và nói:
Ai là mẹ tôi? (Mt 12:48)
Để tỏ cho thấy mầu nhiệm Kitô cao cả về tình liên hệ ấy không tùy thuộc ở thân xác và huyết nhục, nhưng là do sự kết hiệp với bản tính Thiên Chúa qua ơn thánh, Người nói tiếp:
"Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi." (Mt 12:50)
Mầu nhiệm này kết thúc nơi đồi Can-vê. Từ nơi đó người trở nên mẹ của chúng ta, ngay vào lúc mẹ mất Người Con Thiên Chúa của mẹ. Cái coi có vẻ như xa lạ lạnh lùng thực tế lại là một tình cảm mặn mà sâu đậm. Không có tình yêu nào cao cả hơn mà lại không phải để cho chết đi cái ở lãnh vực thấp kém hơn. Mẹ Maria đã chết đi đối với tình yêu của Giêsu ở Cana, và tìm được Giêsu ở Can-ve với Mầu Nhiệm Thân Thể của Người mà Người đã cứu chuộc. Trong chốc lát, đó là một sự tráo đổi dại dột, bỏ Người Con Thiên Chúa của mẹ để được nhân loại, nhưng trên thực tế, mẹ không chiếm được nhân loại ngoài Chúa. Trong ngày mẹ đến tìm Chúa lúc Người đang giảng dạy, Chúa bắt đầu chuyển vai trò làm mẹ Thiên Chúa sang vai trò mới là mẹ của loài người; ở đồi Can-vê Người đã làm cho mẹ yêu thương nhân loại như Người yêu thương họ.
Đó là tình yêu mới, hay có lẽ cùng là tình yêu mở rộng tới toàn thể nhân loại. Nhưng không phải là không có đau khổ. Mẹ phải trả giá để được nhận lấy nhân loại làm con. Mẹ có thể đã sung sướng sinh Chúa Giêsu trong hang đá, nhưng mẹ chỉ có thể sinh các Kitô hữu nơi đồi Can-vê, và chuyển bụng đau đớn đủ để biến mẹ thành Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo. Tiếng Xin Vâng mẹ đã thưa khi mẹ nhận làm Mẹ Thiên Chúa bây giờ trở thành tiếng Xin Vâng khác nữa, mẹ đang mang lại sự vĩ đại giống như trong công trình sáng tạo. Đó cũng là tiếng Xin Vâng làm tăng trưởng cường độ tình yêu của mẹ cũng như tăng nỗi đau đớn của mẹ. Cái đắng đót trong nguyền rủa của Evà – là người phụ nữ sẽ sinh con trong đau đớn – bây giờ được nên trọn, không phải bằng cách mở dạ cung nhưng là bởi lưỡi đòng đâm thâu trái tim, như ông già Simeon đã tiên báo. Không có chức vị nào cao trọng hơn là chức vị làm Mẹ Đức Kitô; nhưng nó cũng là một chức vị cao cả được làm mẹ các Kitô hữu nữa. Không có phòng trọ cho lúc sinh con lần thứ nhất; nhưng mẹ Maria đã có cả thế giới trong lần sanh con thứ hai. Nhớ lại khi Chúa chúng ta nói với Gioan, Người đã không gọi riêng tên “Gioan” của ông, vì gọi như thế thì ông chỉ là con của Zebeđê mà thôi. Đúng hơn, ở nơi ông toàn thể nhân loại được ủy thác cho Đức Maria, người trở thành mẹ của nhân loại, không phải là theo nghĩa bóng, hay biểu tượng, nhưng do việc sản sinh. Đó cũng không phải là do xúc cảm thương tâm thầm kín khiến Chúa trao Gioan cho mẹ của Người, vì mẹ của Gioan cũng có mặt giờ đó gần bên Thập Giá. Ông không cần có một người mẹ khác theo quan điểm của con người. Ngôn ngữ dùng ở đây thuộc về tinh thần và trở nên kiện toàn trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống khi Mầu Nhiệm Thân Thể của Chúa Kitô trở nên sáng tỏ và đi vào hoạt động. Maria trong vai trò làm mẹ của những người được cứu chuộc và đã sinh ra nhân loại đã có mặt ở giữa các Tông Đồ.
Từ lúc mười hai giờ đến lúc ba giờ bóng tối bao trùm toàn khu vực, vì thiên nhiên, cảm thông với Đấng Tạo Hóa, đã từ chối chiếu ánh sáng trên tội giết thiên chúa. Nhân loại, bởi đã luận án Ánh Sáng Thế Gian, bây giờ bị mất dấu của tia sáng vũ trụ, là mặt trời. Ở Belem, nơi Người chào đời lúc nửa đêm, các bầu trời bừng sáng; nơi đồi Can-vê, khi Người bước vào cơn đau kinh khủng nhất của đóng đinh Thập Giá lúc giữa trưa, các bầu trời bị mất sáng. Nhiều thế kỉ trước đó, tiên tri Amos đã nói:
Trong ngày ấy, – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng -,
Ta sẽ truyền cho mặt trời lặn giữa trưa,
và khiến cho mặt đất tối sầm giữa lúc ngày đang sáng. (Amos 8:9)
Chúa của chúng ta bước vào giai đoạn thứ hai trong khổ nạn của Người. Cái thảm cảnh bị ghì đè vào Thập Giá được tiếp theo với thống khổ chịu đóng đinh. Máu của Người đọng lại ở chỗ nó không thể chảy ra được; cơn sốt nổi lên khắp thân Người; các gai nhọn là sự nguyền rủa của địa cầu bây giờ thấm đầy máu chảy ra xem như lời nguyền rủa tội lỗi. Một sự im lặng khác thường, cái là bình thường trong đêm tối, bây giờ trở thành sự kinh hoàng khiếp sợ trong bóng tối khác thường vào ngay giữa giờ cao điểm ban trưa. Khi Giuđa đi vào khu vườn cùng với đám lâu la để bắt Người, Chúa của chúng ta đã nói với y đó là Giờ của Người và “của quyền lực bóng tối.” Nhưng bóng tối này không nguyên chỉ nói rằng con người đang dập tắt Đấng là Ánh Sáng cho tất cả mọi người sinh ra ở trên đời, nhưng cũng nói rằng Người đang tự ý từ bỏ, trong chốc lát, ánh sáng và sự an ủi của Thần Tính nơi Người. Đau khổ bây giờ chuyển từ thân xác sang trí khôn và linh hồn, như Người đã kêu lên lớn tiếng:
Lạy Chúa, Thiên Chúa của Con, nhân sao Người bỏ con? (Mt 27:46)
Trong thời khắc Đóng Đinh này, Chúa chúng ta đã nhắc lại lời Thánh Vịnh của Vua Đavid ám chỉ về Người, cho dù đã được viết hàng ngàn năm trước:
Xa con Người đứng sao đành,
nguy hiểm bên mình không kẻ giúp cho.
Quanh con cả đàn bò bao kín,
thú Ba-san ùa đến bủa vây:
Há mồm đe doạ gớm thay,
khác nào sư tử xé thây vang gầm.
Tưởng mình như tan dần ra nước,
toàn thân con xương cốt rã rời,
con tim đau đớn bồi hồi,
mềm như sáp chảy tơi bời ruột gan.
Nghe cổ họng khô ran như ngói,
lưỡi với hàm dính lại cùng nhau,
chốn tử vong Chúa đặt vào;
quanh con bầy chó đã bao chặt rồi.
Bọn ác đó trong ngoài vây bủa,
chúng đâm con thủng cả chân tay,
xương con đếm được vắn dài;
chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem.
Áo mặc ngoài chúng đem chia chác,
còn áo trong cũng bắt thăm luôn. (TV 21 (22): 13-19)
Những nét bày tỏ trong đau đớn của Chúa được diễn tả trong Thánh Vịnh này là cô quạnh và cô độc thẩm sâu. Con Thiên Chúa gọi Cha của Người, “Thiên Chúa của Con” – Khác với lời cầu nguyện Người dạy cho con người “Lạy Cha chúng con ở trên trời.” Đó không phải là Tính Nhân Loại bị phân cách khỏi Tính Thiên Chúa; điều đó không thể xẩy ra. Đúng hơn đó chỉ là như ánh sáng mặt trời và độ nóng của nó có thể bị che khuất ở cuối chân núi bởi các áng mây, dù đỉnh núi vẫn chan hòa ánh sáng, thì cũng giống như thế, vì nhận lấy tội lỗi của thế gian Người sẵn lòng chấp nhận sự ẩn mặt của Cha Người và tất cả an ủi thuộc Thiên Tính. Tội lỗi có ảnh hưởng trên thể lý, và những ảnh hưởng này Người đã nhận mang lấy bằng việc để cho tay chân của Người bị đóng đinh; tội lỗi cũng ảnh hưởng đến trí khôn mà những ảnh hưởng đó Người đã tuôn đổ ra trong vườn Giết-si-ma-ne; tội lỗi cũng có ảnh hưởng trên tinh thần như cảm giác bị ruồng bỏ, bị phân cách với Thiên Chúa, bị cô đơn. Vào riêng lúc này Người đã bằng lòng nhận lấy cho Mình nguyên lý ảnh hưởng của tội lỗi đó là sự ruồng bỏ.
Con người chối bỏ Thiên Chúa; do đó bây giờ Người bằng lòng chấp nhận cảm thấy bị ruồng bỏ. Con người quay đi với Thiên Chúa; bây giờ Người, Đấng là Thiên Chúa tự nguyện liên kết với con người trong bản tính nhân loại thì cái quặn đau đó là như chính Người có tội. Địa cầu đã ruồng bỏ Người bằng việc nâng Thập Giá của Người lên khỏi đất; trời đã ruồng bỏ Người bằng việc bao phủ đầy tối tăm; tuy là bị cất đi cả hai, Người đã nối kết cả hai lại. Trong lời kêu than đó là tất cả cảm xúc của mọi con tim nhân loại bày tỏ về nỗi luyến nhớ da diết thuộc Thiên Tính: sự cô đơn của kẻ vô thần, của kẻ ngờ vực, của người bi quan, của những người tội lỗi ghét bỏ chính họ vì đã ghét bỏ nhân đức, và của tất cả những người không biết có tình yêu nào ngoài xác thịt; vì sống không có tình yêu là sống trong hỏa ngục. Do đó, chính lúc ghì dựa vào những cái đinh, Người đã đứng bên bờ địa ngục nhân danh tất cả những người tội lỗi. Khi Người bước vào cực hình của tội lỗi, đó là sự phân cách ra khỏi Thiên Chúa, nó là điều xứng hợp để đôi mắt của Người bị bịt phủ đầy tăm tối và linh hồn của Người đầy nỗi cô đơn.
Mỗi lần trong những lời khác, Người đã hành động như Thiên Chúa đấng trung gian; trong lời thứ nhất, Người khấn xin ơn tha thứ cho các tội nhân cách chung; trong lời thứ hai, Người nghĩ đến vai trò cuối cùng của Người lúc tận thế khi Người phân chia người tốt với kẻ xấu; trong lời thứ ba, Người là trung gian cắt đặt chức vị mẹ tinh thần cho nhân loại được cứu chuộc. Bây giờ trong lời thứ bốn, Người hành xử như đấng làm trung gian cho nhân loại đầy tội lỗi. Thiên Chúa và Người tạm đứng đối mặt nhau trong chốc lát. Cựu ước đã tiên báo rằng Người, Đấng treo trên cây bị nguyền rủa; bóng tối đã nói lên rằng lời nguyền rủa thiêu đốt đó Người sẽ cất đi bằng cách mang lấy nó và đạt chiến thắng trong Sự Sống Lại. Một trong những món qùa lớn lao đầu tiên của Thiên Chúa cho con người là món qùa ánh sáng mà Chính Người đã nói Người làm cho nó chiếu sáng trên người công chính và cả trên những kẻ bất lương; nhưng là đấng trung gian và là người bầu cử cho sự trống rỗng và tối tăm của những tâm hồn tội lỗi, Người sẽ tự từ bỏ nơi Chính Mình món qùa ánh sáng tiên khởi đó.
Lịch sử tương quan của Thiên Chúa với con người khởi đi từ Cựu Ước khi ánh sáng được tạo dựng, và lịch sử sẽ kết thúc trong ngày phán xét chung, khi mặt trời, mặt trăng sẽ ra tối tăm và các vì sao không còn chiếu sáng, và các tầng trời sẽ bị bao trùm bởi tối tăm. Trong giữa ngày đặc biệt này, Người đứng giữa ánh sáng đã được tạo dựng và sự tối tăm nhất nơi sự dữ sẽ bị trừng phạt. Những căng thẳng của lịch sử Người đã cảm thấy nơi Chính Người: Ánh Sáng đến với tối tăm nhưng tối tăm không đón nhận Ánh Sáng. Như một người đang hấp hối đôi khi nhìn thấy tất cả cuộc đời của họ được tóm lại, bây giờ Người nhìn thấy tất cả lịch sử tóm kết lại ở Chính Người nơi mà sự tối tăm của tội lỗi đã như chiến thắng trong chốc lát. Con vật tế lễ đền tội mà các thượng tế của Luật Cũ đặt tay lên và thả chúng vào hoang địa, bây giờ trở nên xác thực nơi Người Đấng đi xuống các cửa địa ngục. Qủi dữ đã cắt tất cả các mối giây liên kết con người với Thiên Chúa, dựng nên những cản trở ngăn chặn mọi ngả đường dẫn đưa đến với Người và đóng tất cả các ống dẫn có thể làm tăng sức giúp con người đến với Thiên Chúa. Bây giờ Người cảm thấy như chính Người đã chặt cắt đi sợi giây trói buộc đời sống con người đối với Thiên Chúa. Nỗi đau thể lý của Đóng Đinh Thập Giá chẳng là gì so với nỗi khổ đau của trí khôn mà Người nhận lấy cho Mình. Con trẻ có thể làm những cây thánh giá, nhưng chỉ tội lỗi mới có thể làm tối tăm linh hồn.
Lời kêu than của Đức Kitô về sự ruồng bỏ mà Người cảm thấy khi đứng ở vị trí của người tội lỗi, nhưng không phải là thất vọng. Những tâm hồn thất vọng không bao giờ kêu cầu đến Thiên Chúa. Như đòi hỏi căng thẳng của cái bụng lúc đói nhất được cảm thấy không phải nơi người đang hấp hối đã hoàn toàn mệt lả nhưng nơi người đang tranh đấu cho sự sống còn với cân lạng sức lực họ còn, do đó cảm nghiệm về sự ruồng bỏ không phải chỉ ở nơi những người không tin hay không thánh thiện, nhưng còn có ở nơi những người thánh thiện nhất, như lúc Chúa ở trên Thập Giá. Nỗi đau đớn nhất trên thế gian này của trí tuệ, và là căn nguyên cho những rối loạn tâm lý, đó là trí khôn, linh hồn và con tim của những người không có Thiên Chúa. Sự trống rỗng này không bao giờ tìm được ủi an, nếu Người đã không trải nghiệm tất cả những điều này như là của riêng Người. Từ lúc này trở đi, không người vô thần nào còn có thể nói trong lúc họ cô đơn, Người không biết cái gọi là sống mà không có Thiên Chúa! Cái trống rỗng này của nhân loại bởi tội lỗi, dù Người đã trải nghiệm nơi chính Mình, tuy thế, vẫn được xướng lên để nói cho biết không phải là thất vọng, nhưng đúng hơn là sự hy vọng mặt trời sẽ chiếu sáng trở lại và đánh tan bóng tối.
Bây giờ đến một điểm trong diễn trình của Bảy Lời Cuối từ Trên Thập Giá mà nó như cho thấy rằng Chúa chúng ta đang nói với Chính Mình, trong khi những lời trước đó Người đã nói với những người khác. Nhưng sự thật không đơn giản như vậy. Thật rất đúng, khi bị mất máu vì chịu những khổ hình, trong trạng thái bất bình thường của thân xác với sự căng thẳng hết sức cao độ nơi chân tay, các bắp thịt bị lôi kéo, các vết thương không băng bó, đầu sọ bị đau đớn vì vòng gai nhọn đâm, các mạch máu sưng phồng lên, khớp xương đau như lửa đốt – tất cả tạo nên cơn khát cháy nơi thân xác. Do đó không lạ gì Người bị khát; cái lạ là Người kêu lên là Người khát. Người là Đấng đã ném các vì sao tinh tú vào vũ trụ và không gian, Người qui tụ nước biển đọng lại nhiều cửa ngõ, Người đã dùng Mai-sen làm cho nước chảy ra từ tảng đá, Người đã làm nên biển cả sông ngòi và núi non, Người đã nói với người phụ nữ Samaria: “Người uống nước Ta ban sẽ không bao giờ còn khát nữa” thế mà bây giờ trên môi miệng Người lại thốt ra một lời ngắn gọn nhất trong bẩy lời từ Cây Thập Giá:
Ta Khát! (Ga 19:28)
Khi chịu đóng đinh, Người đã từ chối uống chất giảm đau được trao cho Người; bây giờ Người lại xin giải khát. Nhưng có sự rất khác biệt giữa hai loại giải khát; loại giải khát thứ nhất là chất mộc dược được pha trộn để làm tê giảm đau; Người đã từ chối, để Người không bị tê mất cảm giác. Chất giải khát bây giờ được trao cho Người là giấm chua hay chất rượu chua của những người lính.
Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. (Ga 19:29)
Người, Đấng đã làm cho nước biến thành rượu ở Cana cũng có thể dùng cùng những nguồn không cạn ấy để giải khát cho Mình, trừ ra sự thật là Người không bao giờ làm phép lạ cho Mình. Nhưng tại sao Người lại xin giải khát? Thực sự không phải chỉ vì đó là một nhu cầu, dù có lớn đến đâu. Lý do trung thực nhất là để làm trọn các lời tiên tri:
Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: "Tôi khát! " (Ga 19:28)
Tất cả mọi lời tiên tri trong Cựu Ước nói về Người phải được nên trọn dù là một lời nhỏ nhất. Đavid, trong Kinh Thánh đã tiên báo cái khát của Người trong cuộc Khổ Nạn:
Nghe cổ họng khô ran như ngói,
lưỡi với hàm dính lại cùng nhau. (TV 21 (22):16)
Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng,
con khát nước, lại cho uống giấm chua. (TV 68 (69):21-22)
Do đó những người lính, mặc dù họ trao cho Người giấm chua như để chế diễu, đã được kể lại như thế, tuy nhiên việc đó lại là việc làm trọn lời Kinh Thánh. Giấm chua đã được thấm vào miếng bọt biển buộc vào cành hương thảo và trao lên cho Người. Hương thảo là loại cây mọc cao chừng một thước. Cành hương thảo cũng được dùng để chấm vào máu của Con Chiên Vượt Qua; cành hương thảo cũng được dùng để bôi máu trên cửa nhà của những người Do Thái ở Ai-cập để tránh bị giết khi thiên thần đi qua nhà; cành hương thảo được nhúng vào máu của con chim trong việc lau rửa cho người bệnh phong; chính Đavid, sau khi phạm tội, đã nói ông sẽ được thanh tẩy và rửa sạch với cành hương thảo.
Điều xẩy ra sau cùng trong đời người được Người chủ tâm chia sẻ, vì Người đến để chịu đau khổ và chịu chết. Nhưng Người sẽ không chịu chết cho đến khi Người làm trọn mọi chi tiết của Thánh Kinh mà loài người có thể biết đó là chính Người, Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng chết trên Thập Giá. Người trích từ Kinh Thánh ý tưởng là Đấng Thiên Sai của lời hứa không phải chết theo như số mệnh, nhưng thực hiện nó như một bổn phận. Kiệt lực cạn sức không phải là lý do làm cho Người chết, giống như mệt lả không phải là cái làm cho Người khát. Là Linh Mục Thượng Phẩm và là Đấng Trung Gian thì chính những lời tiên tri về Người đã khiến Người kêu khát. Đúng thế, Các Giáo sĩ Do Thái đã áp dụng lời tiên tri đó về Người. Sách chú giải Midrash nói: “Hãy đến và nhúng miếng bánh của ngươi vào giấm – điều này nói về Đấng Thiên Sai (Messiah) – Đau thương và khổ nạn của Người, như đã được viết trong tiên tri I-sa-i-a. “Người đã bị thương tích vì xúc những phạm của chúng ta, Người bị đánh bầm dập vì tội lỗi của chúng ta.”
Vì những người lính chế diễu trao cho Chúa chúng ta giấm chua buộc vào cành hương thảo, rất có lý là họ đã có ý đùa cợt với một trong các nghi thức tôn giáo của Do Thái. Khi máu con chiên được rảy bởi cành hương thảo, sự thanh tảy qua dấu chỉ bây giờ được nên trọn khi cành hương thảo chạm vào Máu của Đức Kitô. Thánh Phaolô, suy tư về ý tưởng đó viết:
Nhưng Đức Ki-tô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này. Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta. Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho thân xác họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Ki-tô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Ki-tô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống. (DT 9:11-14)
Những người đứng gần Cây Thập Giá, những người biết nhiều về các lời tiên tri trong Cựu Ước lại được cho thấy một chứng cớ nữa đó là Người là Đấng Thiên Sai đau khổ. Lời thứ bốn của Người, lời nói lên những thống khổ trong tâm hồn, và lời thứ năm, là lời bày tỏ những đau khổ nơi Thân Xác của Người, cả hai đều đã được tiên báo. Khát là dấu nói lên sự không hài lòng do bởi tội lỗi gây ra; khoái lạc thể xác được trả bằng cái giá của hạnh phúc tinh thần thì cũng giống như uống nước muối. Người giầu trong hỏa ngục, trong dụ ngôn, đã bị khát và xin với Tổ Phụ Abraham sai Lazaro lấy một giọt nước để thấm vào lưỡi ông. Để trọn vẹn đền bù tội lỗi, lúc này đòi Đấng Cứu Thế phải cảm nghiệm cái khát cứu những người hư mất ngay cả trước khi họ bị hư mất. Nhưng với những người được cứu rỗi thì cũng vậy, nó là một cái khát – khát các linh hồn. Một số người khát tiền, những người khác khát danh vọng; cái khát của Người là khát các linh hồn! “Hãy cho Ta uống” có nghĩa là “hãy cho Ta tâm hồn ngươi.” Thảm cảnh của Tình Yêu Thiên Chúa là trong cơn khát của Người người ta lại trao cho Người giấm chua và mật đắng.
Từ đời đời Thiên Chúa đã muốn tạo dựng con người theo hình ảnh của Người Con Muôn Thuở của Người. Đúc tạo cái hình ảnh hoàn hảo này nơi Adam, Người đã đặt ông trong vườn, một khu vườn vô cùng tuyệt đẹp chỉ duy mình Thiên Chúa mới kiến tạo được. Trong cách nổi loạn huyền nhiệm nào đó của Lu-xi-phe đã lan tới địa cầu, và hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người bị phai nhạt đi. Cha trên trời bây giờ muốn Tình Yêu Thương của Người khôi phục con người trở lại với nét vinh quang của thuở ban đầu, để cho con người đã sa ngã có thể nhận biết hình ảnh mỹ miều mà họ được mong muốn để đạt tới. Thiên Chúa đã sai Con Của Người đến trần gian, không phải chỉ để tha thứ tội lỗi nhưng để đền bù cho công lý qua đau khổ.
Trong công trình Cứu Chuộc tuyệt vời của Thiên Chúa, cả ba cái đã hợp tác trong sự Sa Ngã cũng được chia sẻ trong ơn Cứu Chuộc. Vì sự bất tuân của Adam, lại có sự tuân phục của Adam mới, là Đức Kitô; vì một Eva kiêu ngạo, thì có một Eva mới khiêm tốn là Đức Trinh Nữ Maria; vì một cây trong vườn, thì lại có Cây Thập Giá. Nhìn lại chương trình của Thiên Chúa và sau khi đã nếm giấm chua để làm trọn lời tiên tri, bây giờ Người nói lên điều mà trong lời từ bản gốc chỉ có một tiếng:
Mọi sự đã hoàn tất! (Ga 19:30)
Đó không phải là lời thốt ra như đa tạ là đau khổ của Người đã hết và kết thúc, cho dù sự nhục nhã của Con Người bây giờ là kết thúc. Đúng hơn là cuộc đời của Người từ khi được sinh ra cho đến khi chết đã trung thành chu toàn điều mà Cha Trên Trời đã phái Người đến để thi hành.
Ba lần Thiên Chúa đã dùng cùng một từ ngữ trong lịch sử: lần thứ nhất, trong Sáng Thế Ký, để diễn tả việc hoàn tất công trình sáng tạo; lần thứ hai, trong Sách Khải Huyền, khi tất cả việc tạo dựng không còn nữa và một trời mới đất mới được tạo thành. Giữa hai thái cực này của đầu và cuối, có sự nối kết từ lời thốt ra trên Thập Giá. Chúa chúng ta trong trạng thái nhục nhã nhất, nhìn thấy tất cả các lời tiên tri đã được thực hiện, tất cả những bóng hình được sáng tỏ, và tất cả mọi cái cần thực hiện cho việc Cứu Chuộc loài người đã được thực hiện, đã kêu lên trong vui mừng: “Mọi sự đã hoàn tất.”
Đời sống Thần Linh bây giờ có thể khởi sự công việc thánh hóa, vì công cuộc Cứu Chuộc đã hoàn tất. Trong công trình sáng tạo, đến ngày thứ bảy, sau khi trời đất đã được hoàn thành, Thiên Chúa nghỉ mọi công việc Người đã làm; bây giờ đến lượt Đấng Cứu Thế trên Thập Giá đã giảng dạy như một Bậc Thầy, đã cai quản như Vị Vua, và đã thánh hiến như Linh Mục, cũng có thể nghỉ ngơi. Sẽ không còn có Đấng Cứu Thế thứ hai; không có cách cứu chuộc mới; không có tên nào khác dưới vòm trời để con người có thể được cứu chuộc. Con người đã được mua chuộc và món nợ đã được trả. Một Đavid mới đã xuất hiện để tiêu diệt Goliat xấu xa, không phải với năm viên đá nhưng với năm vết thương – những vết sẹo in dấu mãi mãi trên tay, chân và cạnh nương long; và cuộc chiến đã được chiến đấu không phải với các vũ khí sáng nhoáng dưới ánh sáng mặt trời giữa ban ngày, nhưng với xé thịt nát thây đến nỗi có thể đếm được những đốt xương. Nghệ Nhân đã đặt nét bút họa cuối cùng trong bức tranh kiệt tác, và với sự vui mừng của kẻ hùng mạnh Người hát lên bài ca chiến thắng là công việc của Người đã được hoàn tất.
Không một thứ loại chim câu nào từ đền thờ mà đã không được thực hiện nên trọn nơi Người. Đức Kitô, là một với Chúa Cha Đời Đời trong công trình sáng tạo, đã hoàn hảo hóa Công Cuộc Cứu Chuộc. Không một lời tiên báo nào của lịch sử – từ Abraham người đã dâng con như của lễ hiến tế, đến Jonah người đã ở trong bụng cá ba ngày – mà đã không được thực hiện trọn nơi Người. Lời tiên tri của Zechariah là Người sẽ tiến vào Giêrusalem trên lưng lừa trong khiêm tốn; lời tiên tri của Đavid nói rằng Người sẽ bị phản bội bởi một trong nhóm những người thân cận; lời tiên tri của Zechariah là Người sẽ bị bán lấy ba mươi đồng bạc, và tiền ấy sau đó được dùng để mua một miếng đất là ruộng máu; lời tiên báo của I-sa-i-a rằng Người sẽ đối xử tàn nhẫn, bị đánh đòn, và bị đem đi giết; lời tiên báo của I-sa-i-a rằng Người sẽ bị đóng đinh giữa hai tội phạm, và Người sẽ cầu nguyện cho các kẻ thù; lời tiên tri của Đavid rằng họ sẽ trao cho Người dấm chua để uống và chia nhau áo của Người, Người sẽ là một tiên tri như Mai-sen, một linh mục như Melchisedech, một Con Chiên bị đem đi giết, một con vật làm lễ đền tội bị đuổi ra ngoài thành, Người sẽ khôn ngoan hơn Salomon, vương giả hơn David, và Người sẽ là Đấng mà Abraham và Mai-sen đã thấy trong lời tiên tri – tất cả những lời tượng hình này có lẽ đã bị bỏ không thể giải thích được, nếu Con Thiên Chúa không Nhập Thể trên Thập Giá của Người nhìn lại tất cả đàn chiên và dê và những con vật đã được hiến tế và nói: “Mọi việc đã hoàn tất.”
Không phải sau khi giảng Bài Giảng Trên Núi mà Người nói là công việc của Người đã hoàn thành toàn hảo. Không phải Người nói là Người đến để dạy; như Người đã nói, Người đến để hiến mạng sống của Người làm của lễ đền tội cho nhiều người. Trên đường lên Giêrusalem người đã nói với các Tông Đồ là Người sẽ bị nộp vào tay của Dân Ngoại, sẽ bị nhạo báng và xỉ nhục, bị đánh đòn, bị giết; trong khu vườn khi Phêrô dương kiếm lên, Đức Kitô đã ngăn cản hỏi chẳng lẽ Người không uống chén mà Cha Trên Trời đã trao cho Người. Lúc lên mười hai tuổi, lần đầu tiên Người lên tiếng trong Kinh Thánh, Người nói là Người phải lo làm việc của Cha Người. Bây giờ công việc mà Cha Người trao cho Người làm đã được hoàn tất. Chúa Cha đã sai Con đến trong thân xác giống con người tội lỗi và do bởi Thánh Thần Đời Đời đã thụ thai trong lòng Đức Maria. Tất cả những điều này đã xẩy ra để Người có thể chết trên Thập Giá. Bởi thế tất cả công việc hàn gắn sửa chữa đều có sự tham gia của cả Ba Ngôi. Điều được thực hiện là Ơn Cứu Chuộc, như phêrô đã nói sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, và hiểu ra ý nghĩa của Thập Giá.
Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Ki-tô. (1Pher 1:18-19)
Một trong những hình phạt áp dụng cho con người như hậu quả của tội nguyên tổ là phải chết thể xác. Sau khi bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, Adam đã vấp đụng vào thân thể của Abel. Ông đã nói với con, nhưng Abel không trả lời. Đầu của Abel được nhấc ngẩng lên, nhưng chân tay chùng xuống; mắt của anh lạnh lùng nhìn trừng trừng. Rồi Adam nhớ lại chết là án phạt của tội lỗi. Đó là cái chết đầu tiên trên thế gian. Bây giờ Adam mới, là Đức Kitô, bị giết bởi dòng dõi của Cain, chuẩn bị để đi về nhà. Lời thứ sáu của Người hướng về đất; lời thứ bảy hướng lên Thiên Chúa. Lời thứ sáu là lời từ biệt; lời thứ bảy, khởi đầu cho vinh quang của Người. Người Con hoang đàng đang quay trở về nhà; ba mươi ba năm trước, Anh đã rời bỏ nhà của Cha và đi đến một đất nước xa lạ ở thế gian. Ở đó anh đã tiêu xài hết những cái thuộc về anh, uy quyền phong phú và sự khôn ngoan của Thiên Chúa; vào Giờ sau cùng, tất cả Thân Xác và Máu Huyết của Anh đã đổ ra hết cho những người có tội. Không còn gì để nuôi thân trừ những bấn cám và những cái nhìn khinh dể cùng dấm chua của nhân loại vô ơn bội nghĩa. Bây giờ anh đi vào trong Chính Mình và chuẩn bị lên đường trở về nhà Cha của Anh, và khi Anh làm thế, Anh đã mở miệng nói lên lời cầu nguyện hoàn hảo:
Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. (Lc 23:46)
Những lời này không được nói ra trong hơi thở thì thầm yếu ớt, như một người hổn hển thở khi họ trút hơi thở cuối cùng. Người đã nói rằng không ai lấy đi mạng sống của Người, nhưng là Người tự nguyện chết. Cái chết không đặt tay trên vai của Người và truyền lệnh Người ra đi; Người đi đến để gặp cái chết. Để tỏ cho biết là Người không chết trong cạn kiệt hơi sức, nhưng bởi hành động của ý muốn, những lời cuối cùng của Người được nói lên:
Đức Giê-su lại kêu một tiếng lớn. (Mt 27:50)
Đây là trường hợp duy nhất trong lịch sử về một Người Hấp Hối lại là Người Hằng Sống. Lời từ biệt của Người là lời trích dẫn từ Thánh Vịnh của Đavid:
Trong tay Người, con xin phó thác hồn con,
Người đã cứu chuộc con, lạy CHÚA TRỜI thành tín.
Người ghét bọn thờ thần hư ảo,
phần con đây, lạy CHÚA, chỉ tin tưởng nơi Người.
Được Người thương, con vui mừng hớn hở,
vì Người đã đoái nhìn phận con cùng khốn.
Con lâm cảnh ngặt nghèo, Người lo lắng chăm nom,
chẳng trao nộp thân này vào tay thù địch,
nhưng cho con rộng bước thênh thang. (TV (30) 31:6-9)
Người không ca bài ca sự chết của chính Người; đúng hơn là Người công bố cuộc diễn hành tiến về Sự Sống của Thiên Chúa. Người không tìm chỗ cư ngụ nơi Thiên Chúa bởi vì Người phải chết; đúng hơn là cái chết của Người là để phục vụ con người và làm tròn ý muốn của Thiên Chúa Cha. Thật là khó cho con người, nghĩ chết là một khủng hoảng nhất trong đời người, để hiểu được sự vui mừng trong những lời này của Đức Kitô lúc hấp hối. Người ta nghĩ rằng lúc chết là lúc quyết định vận mệnh tương lai của họ; đúng hơn cuộc sống của họ là cái quyết định. Một số những quyết định họ đã làm, những cơ may đến với họ, các ơn thánh mà họ đón nhận hay vứt bỏ là yếu tố quyết định cho tương lai của họ. Cái hiểm họa khi sống to lớn hơn là cái hiểm họa lúc chết. Do đó bây giờ chính cách Người đã sống, nghĩa là, cứu chuộc nhân loại, quyết định cho niềm vui về cái chết của Người và cho sự hiệp nhất của Người với Cha Trên Trời. Như một số hành tinh chỉ sau một thời gian dài mới xong hành trình chung quanh qũi đạo, như để chào đón Người, Đấng đã sai chúng lên đường , thì Ngôi Lời Nhập Thể, hoàn tất sứ vụ nơi trần gian, bây giờ lại trở về với Cha Trên Trời Đấng đã sai Người đi làm công việc Cứu Chuộc.
Khi những lời này được nói ra, từ phía bên kia đồi của Giêrusalem có những tiếng kêu của hàng ngàn con chiên bị giết ở ngoài hành lang đền thờ để máu của chúng có thể được dâng hiến lên Thiên Chúa trên bàn thờ, và thịt của chúng được dùng để cho dân chúng ăn. Chúng ta không biết có thật hay không từ những lời dạy của các Giáo Sĩ Do Thái là trùng vào ngày mà Cain giết Abel thì Thiên Chúa cũng đã làm Giao Ước với Abraham, I-sa-ac được dẫn lên núi để hiến tế, và Melchisedech đã dâng bánh và rượu cho Abraham, và Esau đã bán quyền sinh trưởng cho Giacob, chúng ta không biết chắc; nhưng vào ngày này Chiên Của Thiên Chúa đã bị giết và tất cả các lời tiên tri được nên trọn. Công Cuộc Cứu Chuộc được hoàn tất. Đã có một trái tim bị tan nát trong tan nát yêu thương; Con Người vâng phục của Thiên Chúa và sẵn lòng để chết.