Philatô thấy đám đông, Chúa Giêsu đi giữa họ, trả về từ Herod và đang tiến đến phía cung điện của ông. Thật là một vấn đề khó khăn để phủi tay đối với Đức Kitô. Buộc phải xử vụ này trước mặt dân chúng, Philatô trở lại với cáo buộc ban đầu là Người xúi dục dân chúng, ông tuyên bố:
Các ngươi nộp người này cho ta, vì cho là tay kích động dân, nhưng ta đã hỏi cung ngay trước mặt các ngươi, mà không thấy người này có tội gì, như các ngươi tố cáo. Cả vua Hê-rô-đê cũng vậy, bởi lẽ nhà vua đã cho giải ông ấy lại cho chúng ta. Và các ngươi thấy đó, ông ấy chẳng can tội gì đáng chết cả. (Lc 23:14-15)
Hiển nhiên là cả hai quan tòa, bất kể lời báo cáo được truyền đi, đều tin là Người Bị Cáo vô tội. Đây là lần thứ hai Người được cho là vô tội. Philatô, biết là người Do Thái nộp Đức Kitô chỉ vì lòng ghen tức, đã tìm cách tránh không xử phạt Người. Tòa Án Tối Cao thực ra đã cho ông cơ hội tránh né qua việc nhắc đến truyền thống của lễ Vượt Qua là tha cho một người tù. Lúc đó có một người tù khổ sai khét tiếng tên là Barabbas. Người này là lãnh tụ bí mật của một nhóm người Do Thái âm mưu chống lại người Roma. Vi phạm cả hai tội xúi dục và sát nhân trong lúc làm cách mạng chống lại quyền cai trị của Roma, ông đã bị bỏ tù.
Philatô rất tinh lanh; ông đã chủ ý làm rối vấn đề bằng việc chọn một tù nhân thực có tội giống như cáo buộc họ trình bày chống lại Đức Kitô, đó là xúi dục chống lại Caesar. Trong vài phút, hai người đứng trước đám đông trên nền nhà đá trắng trong sảnh đường. Philatô ngồi trên ghế ở bục cao, cùng các hộ vệ trong cung. Barabbas, đứng một bên và Đức Kitô đứng một bên. Đây là hai người bị cáo buộc tội làm loạn. Barabbas đứng trước tội danh với an ninh quốc gia; Đức Kitô đứng trước lương tâm. Tiếng kèn vang lên. Trật tự được phục hồi. Philatô bước ra và nói với đám đông:
Các ngươi muốn ta phóng thích ai cho các ngươi đây? Ba-ra-ba hay Giê-su, cũng gọi là Ki-tô? (Mt 27:17)
Câu hỏi của Philatô có đầy bầu khí dân chủ và tự do chọn lựa, nhưng nó chỉ là bản sao chép rẻ tiền. Suy về câu hỏi của ông. Trước tiên là với quần chúng là thính giả, rồi đến chính câu hỏi. Dân chúng thực ra không muốn giết Chúa. Đó là lý do có một số từ ngữ mị dân:
Nhưng các thượng tế và kỳ mục lại xúi đám đông đòi tha tên Ba-ra-ba mà giết Đức Giê-su (Mt 27:20)
Luôn luôn có những loại người khố rách áo ôm, cụp đuôi, bất cần và vô tri, sẵn sàng nghe theo những lời đường mật được coi là “nghệ thuật điếm đàng.”Dân chúng có thể bị lừa bịp bởi những lãnh tụ bất lương; những người đã reo hò “Vạn Tuế” trong ngày Chúa Nhật lại có thể la to “Đóng Đinh” vào ngày thứ Sáu.
Điều xẩy ra vào buổi sáng Thứ Sáu hôm đó chính là sự tuyên truyền để dân chúng trở thành những đám đông không danh tính. Một dân chủ với lương tâm đã đổi ra thành một “Bày-Chủ” lấn uy quyền. Khi nền dân chủ mất cảm thức đạo đức luân lý, nó có thể chọn đi ra khỏi nền dân chủ. Khi Philatô hỏi:
Cái ngươi muốn ta phóng thích ai cho các ngươi? (Mt 27:17)
Ông đã có một cuộc trưng cầu dân chủ. Ông cho rằng việc chọn lựa có nghĩa là quyền chọn giữa vô tội và có tội, tốt và xấu, đúng và sai.
Để trả lời cho câu hỏi của Philatô, đám đông đã la lên:
Barabbas (Mt 27:22)
Philatô đã không thể tin điều ông nghe thấy. Barabbas cũng khó có thể tin như thế! Chẳng lẽ ông sẽ được phóng thích trở thành người tự do sao? Đây là lần đầu tiên ông nghĩ là ông có thể thực hiện cuộc nổi dạy. Ông quay cái mặt sưng đỏ hửng của ông nhìn về phía Người Nazaret. Ông có ý so dò đối địch từ đầu tới chân, nhưng rồi ông không dám nhìn thêm. Có điều gì từ ánh mắt của Người như đọc được tâm hồn của ông, giống như là con người Nazareth kia thực sự xót thương cho y vì y được phóng thích.
Nhưng tất cả mọi người đều la ó: "Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi! (Lc 23:18)
Philatô lại nói với dân chúng: "Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do-thái? (Mc 15:12)
Ông Phi-la-tô muốn thả Đức Giê-su, nên lại lên tiếng một lần nữa. Nhưng họ cứ một mực la lớn: "Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập giá! (Lc 23:20-21)
Lần thứ ba, ông Phi-la-tô nói với họ: "Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác? Ta xét thấy ông ấy không có tội gì đáng chết. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra." Nhưng họ cứ la to hơn, nhất định đòi phải đóng đinh Người. Và tiếng la càng thêm dữ dội. Ông Phi-la-tô quyết định chấp thuận điều họ yêu cầu. Ông phóng thích người tù họ xin tha, tức là tên bị tống ngục vì tội bạo động và giết người. Còn Đức Giê-su thì ông trao nộp theo ý họ muốn. (Lc 23:22-25)
Đa số đồng ý vẫn không phải luôn luôn là đúng. Đa số chỉ đúng phần nào, chứ không tuyệt đối đúng. Đa số chỉ là bài trắc nghiệm hợp pháp bao lâu sự lựa chọn được đặt căn bản ở lương tâm chứ không phải do chiến dịch cổ động. Sự thật không chiến thắng khi các con số trở thành yếu tố quyết định. Những con số có thể quyết định chọn một hoa hậu, nhưng không thể chọn công lý. Sắc đẹp thuộc vấn đề giác quan thưởng thức, nhưng sự công lý không nếm được bằng giác quan. Cái gì đúng thì vẫn đúng cho dù không ai đúng, và sai thì vẫn sai nếu tất cả mọi người ai cũng sai. Thăm dò tiên khởi trong lịch sử Kitô giáo đã sai lầm!
Barabbas được phóng thích tự do vì Đức Kitô, tuy đó chỉ là tự do chính trị. Nhưng nó là một dấu chỉ cho biết rằng qua cái chết của Người con người được giải thoát. Nó xẩy ra trong thời gian của Lễ Vượt Qua khi một con chiên được thay thế cho dân chúng và đi chịu chết đền tội cho họ. Đấng Cứu Thế phải chịu đau khổ để người có tội được tha bổng. Sách Xuất Hành đã công bố rằng người tội lỗi được cứu chuộc bởi một con chiên, nhưng Con Chiên không thể được cứu. Đấng Cứu Thế không thể được tha bổng, nhưng người có tội có thể.
Philatô, vẫn nóng lòng không muốn tuyên án Đức Kitô, với ý tưởng xoay chuyển lạ kỳ đã nói:
Vậy ta cho đánh đòn rồi thả ra (Lc 23:16)
Đánh đòn luôn là hình khổ của người Roma trước khi đóng đinh thập giá, nhưng việc đánh đòn ở đây không phải là hình phạt đó. Như Lysias sau này đã không ngần ngại cho đánh đòn Phaolô mà không cần chứng cớ, do đó Philatô cho đánh đòn với hy vọng thuyết phục được sự cảm thông của đám đông. Dĩ nhiên Chúa của chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên, Người đã nói trước rằng Người sẽ bị đánh đòn và bị đóng đinh. Philatô đã ba lần có ý muốn tha cho Chúa; một lần tuyên bố Người vô tội; lần khác cho cơ hội phóng thích một tù nhân trong dịp Lễ Vượt Qua, và lần sau cùng là cho đánh đòn.
Philatô cố gắng dung hòa giữa việc chiều lòng hội đồng Tòa Án Tối Cao và nghe theo tiếng lương tâm của ông. Nhưng Philatô đã sai lầm khi nghĩ rằng chỉ đánh cho chảy máu có thể giúp hạ nhiệt và làm dịu lòng họ xuống để họ thương cảm. Việc dung hòa như thế đối với công lý rất hiếm khi đạt được mục đích. Nếu có tội thì Philatô phải luận án Người phải chết; nếu vô tội, ông phải tha bổng cho Người.
Chúa của chúng ta mong mỏi hiến Thân Mình như của lễ Đền Bù cho tội lỗi; Người đã diễn tả về Người như phải chịu một Phép Rửa mà Người cần phải thực hiện. Gioan làm phép rửa cho Người bằng nước, nhưng những người lính Roma bây giờ trao cho Người phép rửa trong máu. Sau khi đánh đập xé nát thân xác của Người với những làn roi bạo tàn, bây giờ họ khoác cho Người chiếc áo choàng màu tím đang bám dính vào thân xác đang chảy đày máu. Rồi họ bện chiếc vòng gai nhọn đặt lên đầu của Người. Những người lính đã văng tục chửi thề khi lỡ tay bị những chiếc gai nhọn đâm vào tay của họ, nhưng họ lại chế diễu Người khi chiếc vòng gai được đội lên đầu của Người! Rồi họ mỉa móc Người và đặt vào tay Người một cái que sậy sau khi đã dùng nó đập lên đầu của Người. Thế rồi họ diễu cợt qùi gối bái Người. Như lời tiên tri I-sa-i-a:
Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta,
đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta,
còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt,
bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề.
Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội,
bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm;
người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an,
đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành. (Is 53:4-5)
Sau đánh đòn, Philatô đưa Đức Kitô đầm đìa máu me ra trước đám đông và nói:
Đây ta dẫn ông ấy ra ngoài cho các ngươi, để các ngươi biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy. Đây là người! (Ga 19:4-6)
Các ngươi thấy con người mà các ngươi cáo buộc. Hãy nhìn xem Người không mặc áo cẩm bào, không triều thiên vương miện nhưng là vòng gai nhọn, chẳng có dấu nào cho thấy là Vua ngoài cái áo khoác đỏ và chẳng có dấu gì cho thấy uy quyền ngoài cái que sậy. Bảo đảm là Người sẽ chẳng bao giờ có được tước hiệu Vua mà tước hiệu đó đã khiến Người phải trả cái giá qúa đắt. Tôi hy vọng tìm thấy chút tia sáng thương cảm trong tính người của các người, và đó là lý do tại sao ta chiều ý các người.
Đóng đinh nó! Đóng đinh nó!
Philatô nói:
Các ngươi cứ đem người này đi mà đóng đinh!
Dân chúng đáp lại:
"Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa." (Ga 19:6,7)
Philatô nói Người là một “con người”; họ nói, “Con Thiên Chúa.” Philatô đã tuyên bố Người vô tội đối với luật của Roma. Họ đáp lại là Người có tội theo luật của họ. Khi Philatô nghe họ nói Người là “Con Thiên Chúa.”
Ông càng sợ hơn nữa (Ga 19:8)
Mê tín dị đoan đi đôi với ngờ vực. Herod đã không tin vào sự sống lại; tuy thế, khi ông nghe nói về Chúa của chúng ta đang rao giảng trong vùng, ông đã nghĩ Đức Kitô là Gioan Tẩy Giả trở về từ cõi chết. Philatô không tin Người là Con Thiên Chúa; tuy vậy, ông phân vân đắn đo trước Con Người lạ lùng này, Người đã không hề mở miệng nói một lời để bào chữa cho mình. Run sợ lo lắng trong lòng rằng có thể Đức Kitô là một sứ giả từ các thần thánh, Philatô gọi Người vào phòng trong và nói với Người:
Ông từ đâu mà đến (Ga 19:9)
Philatô đã không hỏi, “Ông là ai?” hay “Ông có phải là Con Thiên Chúa không?” nhưng “Ông từ đâu mà đến?” Nguồn gốc của Chúa từ Galilea đã không khiến ông chú ý, vì ông đã gởi Đức Kitô như một người Galilea đến với Herod. Ông coi Đức Kitô là một cái gì khác hơn là một người bình thường. Nếu Người thực sự đến từ trời cao thì ông sẽ không cho đóng đinh Người; do đó ông đã hỏi riêng để biết nguồn gốc tông tích thật của Người. Philatô đã sáu lần hỏi Người. Chỉ còn lại thêm một lần nữa để ông hỏi.
Nhưng Chúa Giêsu từ chối không trả lời. Philatô đã từng quay lưng lại với sự thật rồi. Năm lần trong cuộc xét xử, Chúa của chúng ta đã giữ im lặng khó hiểu, trước vị thượng tế, trước Toà Án Tối Cao, trước Herod, và hai lần trước Philatô. Sự giữ im lặng như thế có thể có ý nghĩa là khi gánh lấy tội lỗi của nhân loại, Người chẳng cần nói gì để tự bào chữa cho mình. Khi Người nói nghĩa là nói trong vai trò của một Đấng Chăn Chiên; khi người im lặng nghĩa là Người như một “con chiên” theo lời I-sa-i-a đã tiên báo:
Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca;
như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông,
người chẳng hề mở miệng. (Is 53:7)
Philatô đã coi Đức Kitô như một vấn đề để suy đoán chứ ông không để cho chính ông đối diện với sự thật ngay trước mặt. Đối với những con người như thế, thì sẽ không có câu trả lời từ trời cao. Thẩm sâu trong trí não của ông, Philatô đã tin là Người vô tội, nhưng ông không hành động theo điều ông tin. Do đó Philatô không xứng đáng nghe và nhận được câu trả lời. Ông đã bỏ mất vị thế trong chức vị của ông đối với bất cứ tỏ lộ nào từ Người Tù này. Mỗi linh hồn đều có ngày được thăm viếng, và Philatô đã có nhưng bỏ mất cơ hội của ngày đó.
Có thể trong lúc này Claudia, vợ của Philatô, sai người đến nói với chồng của bà. Claudia là con gái út của Julia, con gái của Caesar Augustus. Julia đã lập gia đình đến ba lần, lần sau cùng với Tiberius. Vì cuộc sống phóng túng của bà, Julia lại mang thai với một kị binh Roma và bà bị lưu đầy rồi sanh ra Claudia. Khi Claudia được mười ba tuổi, Julia gởi con về để được Tiberius chăm sóc. Khi Claudia mười sáu tuổi, Philatô, thuộc giai cấp thấp, đã gặp Claudia và xin phép Tiberius để cưới cô. Do đó Philatô đã được vào gia đình Hoàng Tộc của Đế Vương và bảo đảm cho tương lai chính trị của ông. Có thế lực nhờ hôn nhân, Philatô đã được ủy nhiệm chức quan Tổng Trấn của Giuđêa.
Các quan tổng trấn Roma không được phép mang vợ đi theo tới lãnh thổ họ cai quản. Hầu hết những người làm chính trị thích như thế, nhưng Philatô lại không thích. Tình yêu phá bỏ pháp luật Rôma. Sau khi Philatô đã ở Giêrusalem được sáu năm, ông đưa Claudia đến sống, bà luôn mong và sẵn sàng bằng lòng chấp nhận đời sống buồn tẻ xa thủ đô của thế giới để đến sống giữa những người xa lạ không quen biết.
Chúng ta có lý do để tin là Claudia đã từng nghe biết về Đức Giêsu, có lẽ là từ những nữ tì người Do Thái lo việc lau dọn cho bà hay là từ những người phụ tá nói cho bà biết về Người. Có thể chính bà cũng đã gặp Người, vì từ căn cứ Antonio nơi bà sống, cũng gần Giêrusalem và là nơi Đức Giêsu thường hay lui tới.
Rất có thể bà cũng đã từng nghe về thông điệp của Người, và vì nhận định “Không ai đã từng nói như người này nói,” tâm hồn của bà đã bị chấn động. Một khác biệt giữa Người và tư tưởng của Người về thế gian mà bà đã biết và các ý nghĩ mà bà đã suy nghĩ, càng thấm sâu thu hút. Được mấy người phụ nữ Giêrusalem, những người đã từng trông thấy bà Claudia đứng bên rèm cửa, cố gắng nhìn ánh nhẫn lấp lánh trên ngón tay của bà, hay gương mặt xinh đẹp kiêu sa của bà, lại có thể đọc được những ý nghĩ sâu xa nơi bà, nỗi buồn day dứt và lòng ước ao sâu đậm nơi bà?
Người Roma có quân luật Prussian rất ngặt phải tuân thủ. Phụ nữ không được xen vào vấn đề pháp lý, cũng không được phép đề nghị gì liên quan để thủ tục pháp lý. Điều càng đáng chú ý về việc Claudia xen vào bối cảnh là thời điểm bà nhắn tin cho chồng là Phong-xi-o Philatô lại xẩy ra ngay vào ngày ông làm một quyết định cho một trường hợp quan trọng nhất trong đời sự nghiệp của ông, và là trường hợp duy nhất ông nhớ suốt đời – cuộc xét xử Chúa của chúng ta.
Để gởi tin nhắn đến cho một quan tòa khi ông đang xét xử bị coi là một tội phạm đáng trừng phạt, và chắc chắn phải là cái gì rất kinh khủng mà bà đã nhìn thấy thì bà mới dám làm như thế.
Lúc tổng trấn đang ngồi xử án, thì bà vợ sai người đến nói với ông: "Ông đừng nhúng tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, tôi chiêm bao thấy mình phải khổ nhiều vì ông ấy." (Mt 27:19)
Trong lúc những phụ nữ Israen im lặng, thì người đàn bà ngoại này làm chứng Đức Giêsu vô tội, và đã xin với chồng phân xử cho Người cách chính trực.
Thông điệp của Claudia là mẫu mực mà Kitô giáo phải có đối với giới phụ nữ dân ngoại. Bà là một phụ nữ người Roma duy nhất trong Tin Mừng và là người thuộc dòng tộc quyền qúi. Giấc mộng của bà là một mẫu mực của mọi giấc mộng và là niềm mong ước của thế giới ngoại giáo, niềm hy vọng nơi một con người công chính – một Đấng Cứu Thế.
Giấc mộng đó là gì thì chúng ta không được biết, nhưng một tác Giả ngày nay, Gertrud von Le Fort, đã phỏng đoán. Sáng Thứ Sáu Thánh, khi Claudia thức dạy, bà dường như đã nghe tiếng nói từ trong khu nghĩa địa hầm: “Người đã chịu khổ hình dưới thời Phong-xi-o Philato”; và sau đó thì các đền thờ Roma trở nên những ngôi nhà thờ: “Người đã chịu đau khổ dưới thời Phong-xi-o Philatô”; thế rồi tụ lại như sóng biển gào, các tiếng nói càng nhiều thêm lên và ca vang trong các nhà thờ nổi lên như những ngọn tháp chọc trời: “Người đã chịu đau khổ dưới thời Phong-xi-o Philatô.” Nhưng dù giấc mộng ấy là gì, linh cảm của người phụ nữ ấy đã rất đúng, con người thực tế kia sai. Philatô, thấy Người Tù vẫn im lặng, đã đầy tức giận, vì ông thường thấy những người bị tố cáo phục lạy kêu van trước mặt ông.
"Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?” (Gio 19:10)
Philatô đã nói đến quyền tha bổng hay kết tội. Nhưng nếu Người Tù trước mặt ông vô tội, thì Philatô không có quyền cho đóng đinh; nếu Người có tội, ông không có quyền tha bổng. Quan tòa bị xét xử, Chúa của chúng ta nói ngay, và nhắc bảo cho Philatô biết rằng bất cứ quyền bính xét xử nào ông có đều không phải là đến từ Caesar nhưng là từ Thiên Chúa. Philatô đã thị uy bằng quyền độc đoán của ông, nhưng Đức Kitô đã nói cho ông biết quyền bính là một ủy nhiệm cho con người.
"Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho Ngài”. (Ga 19:11)
Quyền bính mà Philatô tự hãnh có là do ông “được ban cho.” Là quan tổng trấn, là vua hay bất cứ một người có quyền cai trị nào, biết hay không biết, tất cả quyền bính ở trần gian đều được từ trên ban. “Từ Ta các vua chúa cai quản,” lời trong sách Châm Ngôn. Nhưng Chúa đã qui trách nhiệm có tội nặng hơn cho Giuđa và cho vị thượng tế.
Vì thế, kẻ nộp tôi cho người thì mắc tội nặng hơn." (Ga 19:11)
Philatô, là người ngoại, đã không biết rằng quyền bính của ông đến từ Thiên Chúa, nhưng Caipha biết; Giuđa cũng biết. Kiến thức trội hơn này làm cho tội của họ nặng hơn tội của người Roma. Philatô phạm tội vì thiếu hiểu biết; Caipha phạm tội vì làm ngược lại với sự hiểu biết của mình. Giuđa cũng thế.
Lời chỉnh sửa táo bạo về Philatô, nhắc cho ông sự lệ thuộc của ông nơi Thiên Chúa, và cho ông biết tội ông nhẹ hơn, nhưng nó vẫn thực là tội, đã khơi lên nơi ông sự nỗ lực hơn bao giờ hết để “phóng thích Người.” Philatô bước ra gặp đám đông và tái khẳng định sự vô tội của Người Tù. Nhưng đám đông đã có sẵn lời đáp trả xảo quyệt:
"Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Xê-da. Ai xưng mình là vua, thì chống lại Xê-da." (Ga 19:12)
Philatô bị hoảng sợ! Nếu ông phóng thích Người Tù này, khiếu nại sẽ được gởi đến với Đế Vương vẫn đã từng nghi ngờ cho rằng ông có âm mưu chống đối và tạo phản. Và như thế, thì ông có thể sẽ mất cả quyền tổng trấn và có khi mất cả đầu. Thật là điều lạ đó là đám đông dân chúng rất thù ghét Caesar vì những cuộc tàn sát bạo tàn của ông, với tất cả những tổn hại ông đã gây ra cho họ, và sự xúc phạm làm ô uế đền thờ của họ, bây giờ họ lại tuyên bố là họ chẳng có vua nào khác ngoài Caesar. Bằng việc tuyên nhận Caesar là vua của họ, họ đã từ bỏ quan niệm về Đấng Thiên Sai và biến chính họ trở nên thần dân của Đế Quốc, chuẩn bị cho quân đội Roma đến nuốt trửng Giêrusalem chỉ trong một thế hệ. Nỗi lo sợ trong liên hệ với Tiberius đã như rất thực đối với Philato hơn là từ chối công lý với Đức Kitô. Nhưng kết cuộc, những ai sợ con người hơn sợ Thiên Chúa sẽ mất cái họ hy vọng con người sẽ dành giữ cho họ. Philatô sau này đã bị Đế Vương Roma truất phế vì sự khiếu nại của người Do Thái – một thí dụ điển hình nữa cho thấy con người bị trừng phạt do chính những khí cụ mà họ tin cậy vào. Khi Philatô nghe lời đe dọa sẽ bị tố cáo lên Caesar vì ông thiên vị một người bị cáo buộc là kẻ thù của Caesar, Philatô đã ngồi xuống ghế quan toà. Chỉ vào Người Tù áo đẫm máu khô, mang vòng gai nhọn và khoác chiếc áo đỏ, ông nói với dân chúng:
"Đây là vua các ngươi!" Họ liền hô lớn: "Đem đi! Đem nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!" (Ga 19:14-15)
Philatô hỏi lại:
Đóng đinh vua các ngươi sao?
Các thượng tế trả lời:
Chúng tôi không có vua nào ngoài Caesar (Ga 19:15)
Và vua đã đón nhận lời của họ! Như trước đó, trong thời Samuen, họ đã từ chối sự cai quản của Thiên Chúa để có một vị vua mà Thiên Chúa bất đắc dĩ nổi giận ban cho họ, thì bây giờ, khi họ từ chối Vương Quyền của Đức Kitô và họ sẽ cắm lại ở đất dưới quyền cai trị của Caesar. Theo tục của người Roma khi một phạm nhân bị án tử hình thì lấy một khúc cây dài, cắt làm hai, và để ở dưới chân của người đó. Philatô cũng làm theo tập tục này, cắt khúc cây ra làm hai xếp thành hình thập giá để trên nền nhà.
Ibis ad crucem (“Người sẽ chịu khổ hình Thập Giá) án lệnh bằng tiếng Latinh, cùng với mệnh lệnh: I, Lector, expedi crucem (Hãy đi, Xướng Viên, chuẩn bị Thập Giá)
Bấy giờ ông Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho họ đóng đinh vào thập giá. (Ga 19:16)
Việc Philatô trao Người Tù cho họ đem đi đóng đinh đã không bao giờ có thể nói là ông bất lực; trước đó mấy phút ông đã tự xưng là ông có quyền trừng phạt và tha bổng. Ông cũng chẳng thể bào chữa cho mình với lý do là ông không có can đảm chống lại những người muốn giết Đức Kitô, vì trong chốc lát, khi họ yêu cầu thay đổi hàng chữ được ghi viết trên bản án treo trên Thập Giá, ông đã tỏ thái độ cương quyết không nhượng bộ. Philatô đã đóng kịch hai vai. Ông đã không muốn mất lòng những người dưới quyền ông kẻo bị họ khiếu nại lên Caesar, ông cũng chẳng muốn gây đổ máu một người vô tội.
Tội cho việc Đóng Đinh Chúa không đổ trên riêng một quốc gia, một dân tộc, một nhóm người, hay một cá nhân nào. Tội lỗi là nguyên cớ cho việc Đóng Đinh Chúa, và tất cả nhân loại chia sẻ sự lây nhiễm của tội lỗi. Người Do Thái và dân ngoại đều có phần trong tội, nhưng điều quan trọng hơn là Chúa Cha Trên Trời cũng đã để Người phải chết, và cả người Do Thái và Dân ngoại chia hưởng hoa trái của ơn Cứu Chuộc:
Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. (Rom 8:32)
Thế rồi Philatô:
Thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: "Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!” (Mt 27:24)
Chắc chắn Philato đã không biết đến nghi thức kỳ bí được Mai-sen truyền dạy, nhưng dân chúng khi nghe thấy Philatô tuyên bố ông vô can đã phải liên tưởng đến điều đó. Mai-sen đã truyền lệnh:
Tất cả các kỳ mục thành ấy, là những người ở gần xác chết nhất, sẽ rửa tay trên con bò cái tơ đã bị đánh gãy ót trong khe suối. Họ sẽ lên tiếng nói: "Tay chúng tôi đã không đổ máu này, và mắt chúng tôi đã không nhìn thấy. Lạy ĐỨC CHÚA, xin xá tội cho dân Người là Ít-ra-en, mà Người đã giải thoát, và đừng để máu vô tội ở lại giữa dân Người là Ít-ra-en." Và họ sẽ được xá tội về vụ đổ máu đó. Còn anh (em), anh (em) sẽ khử trừ máu vô tội, không cho tồn tại giữa anh (em), vì anh (em) làm điều ĐỨC CHÚA coi là ngay thẳng. (ĐNL 21:6-9)
Bây giờ vai trò đảo ngược lại. Chính Philatô lại tuyên bố ông vô tội; và những người theo Mai-sen lại làm ngược lại. Nghi thức của Mai-sen đã hình dung trước việc làm cho nên vô tội bằng máu, là cách Đức Kitô chịu chết. Philatô, trái lại, đã tìm chạy chữa tội của ông trong nước như Mohammed đã tìm chạy chữa tội trong cát. Spencer trong Faery Queene đã miêu tả Philatô suốt cuộc đời còn lại vẫn cứ tiếp tục rửa tay. Bà Macbeth đã làm điều này, nhưng như nước không thể rửa lòng của Philatô, Bà Macbeth phàn nàn:
Cả nước biển Neptune có rửa sạch máu khỏi tay tôi không? Không . . .
Dù quan Tổng Trấn hèn nhát đã rửa bỏ trách nhiệm cách tượng trưng vì hành động công lý bẩn thỉu của ông, lịch sử đã vang lên lời than khóc: “Người đã Chịu khổ hình dưới thời Phong-xi-ô Philatô.”
Giuđa đã thú nhận là y đã phản bội làm đổ máu “người vô tội”; Philatô tiếp tục chối tội của ông; Herod cũng chẳng nhận; Claudia Procula nhìn nhận Người là “người công chính;” tên trộm trên thập giá sau này nói Người chẳng làm gì sai; và người đội trưởng sau cùng tuyên bố:
“Người này thật là Con Thiên Chúa.” (Mt 27:54)
Nhưng bây giờ Philatô tuyên bố ông vô tội trong việc đổ máu Người, dân chúng kêu lên:
Máu của hắn đổ trên chúng tôi và trên con cháu chúng tôi. (Mt 27:26)
Máu đó có thể đã đổ trên họ vì sự tàn phá, nhưng nó vẫn là máu cứu chuộc. Dù họ có nhận lấy nguyền rủa trên chính họ, Đấng mà họ đóng đinh đã không chuẩn nhận án phạt của họ. Cuối cùng họ sẽ hoán cải. Trước hồi kết, luôn luôn có người còn sót lại được cứu chữa. Ngay cả bây giờ, không hề có một người phụ nữ nào trong họ muốn cho Người phải chết. Cũng thế, trong số những người ở giữa họ vào giờ này là những tâm hồn cao cả như Giu-se thành Arimathea, Nicodemô, quản gia nhà Herod, và vài năm sau là Phao-lô. Nhưng lúc này khi Người bị trao vào tay trần gian, sau khi Người được trao đi từ trời cao, để chịu đóng đinh, còn lời chếu diễu:
Chúng lột áo điều ra, và cho Người mặc áo lại như trước. (Mc 15:20)
Không nói gì đến việc tháo gỡ mạo gai trên đầu của Người, mặc dù họ đã cởi chiếc áo mà Người bị chế diễu và trêu chọc như một vị vua giả. Áo riêng của Người được mặc lại cho Người, có lẽ gồm cả áo trong và áo ngoài, và chiếc áo choàng, vì sau này những người lính đã bắt thăm xem ai được. Người sẽ bước đi trong bộ áo của riêng Người và được nhận diện như Đấng đã rao giảng cho dân của Người và bước đi giữa họ như Đấng Thiên Sai.
Sau đó, chúng dẫn Người đi để đóng đinh vào thập giá. (Mc 15:21)
Người được dẫn ra ngoài thành, đó là tập tục đối với mọi án tử hình. Leviticus truyền là những người có tội lộng ngôn phạm thượng phải bị giết ngoài thành. Stephanô, khi bị ném đá như vị tử đạo tiên khởi, cũng đã bị dẫn ra ngoài thành. Luật pháp cũng truyền dạy là dùng một con vật thế tội, vị thượng tế đã đặt tay lên nó như dấu chỉ qui tội cho con vật thay cho dân, phải được dẫn ra ngoài thành như dấu tội lỗi của dân có thể được cất đi khỏi. Thư gởi tính hữu Do Thái diễn tả biểu tượng này:
Vị thượng tế mang máu thú vật vào cung thánh để dâng làm của lễ đền tội; nhưng thây các thú vật đó đều bị thiêu ở ngoài trại. Vì thế, Đức Giê-su đã chịu khổ hình ngoài cửa thành, lấy máu mình mà thánh hoá toàn dân. (DT 13:11-12)
Bây giờ họ quyết định Người phải chết, nhưng Người là gì và Đấng họ đã ghét bỏ không bao giờ có thể chết.
Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Híp-ri là Gôn-gô-tha; (Ga 19:17)