Người ta đề cập nhiều đến vấn đề sức khỏe khi họ không được khỏe mạnh. Cũng thế người ta nói nhiều về vấn đề tự do khi họ ở trong tình trạng nguy cơ mất tự do hay khi họ bị nô lệ hóa. Có khi tự do được coi như một tờ giấy phép hay là với sự đòi hỏi áp chế. Vì Chúa Giêsu đến một đất nước đang bị cưỡng bách nô lệ và làm chư hầu, cho nên một số người không mong mỏi gì khác hơn là được tự do độc lập trong lãnh vực chính trị, được thoát khỏi ách thống trị. Nếu người là nhà cải cách đạo đức thì đó là điều Người nên mang lại cho họ; nhưng nếu Người là một Vị Cứu Thế, và đúng Người là Đấng Cứu Thế, thì tự do tâm linh là điều quan trọng hơn tự do chính trị.
Trên đỉnh núi cao, Sa-tan đã cố gắng thuyết phục Người quan tâm đến sự nghiệp chính trị trần thế nhưng không thành công. Chính trị phải phục vụ Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa phục vụ cho chính trị. Sau này, khi đám đông muốn tôn Người lên làm vua của họ, Người đã trốn đi lên núi. Nhưng tư tưởng giải phóng chính trị đã lan truyền và có trong suy nghĩ của nhiều người. Toàn thể đất nước Irsaen ở dưới quyền cai trị của người Rôma từ khi Pompey tiến chiếm Thành Thánh bắt giữ Aristobulus và nhiều người đi lưu đầy. Đất nước của họ trở nên một chư hầu của Roma. Khi từ ngữ “Tự Do” được dùng, nó luôn được hiểu theo nghĩa chính trị trong việc lật đổ chế độ nô lệ của Caesar.
Bởi thế Chúa Giêsu luôn phải đối đầu với vấn đề này – một là vì có những người hy vọng Người sẽ là lãnh tụ đứng đầu cuộc giải phóng chính trị, hoặc là vì khi Người nói về vấn đề tự do thì đã bị họ hiểu lầm cho là tự do đập lập với Roma. Ba trường hợp khác nhau Người đã thanh minh về vấn đề này để đánh tan những nghi ngờ về quan điểm của Người đối với tinh thần tự do chân thật:
Hai nhóm có quan điểm trái nghịch đối với Caesar: Nhóm Herodian và nhóm Pharisiêu. Nhóm Herodian không phải là một giáo phái hay một trường phái, nhưng là một đảng phái chính trị. Bề ngoài họ là những người thân thiện với Caesar và nhà cầm quyền Roma; dù họ không phải là những người Roma, họ hợp tác ủng hộ gia tộc Herode trong vị thế lãnh đạo của Do Thái; điều này khiến họ trở thành bạn của giới cầm quyền ngoại giáo Roma và Caesar, chính Herode là kẻ chư hầu hợp tác với Roma để giữ quyền lực. Mong thấy Judea sẽ được đặt dưới quyền cai quản của giòng tộc Herode, lúc đó họ phục quyền như là những người du hành đối với nhà cầm quyền ngoại giáo Roma.
Một đảng phái khác là Pharisiêu, những người bây giờ có quyền lực cao. Họ là những người chủ trương duy lề luật và truyền thống Do Thái, họ không nhìn nhận quyền cai trị của người Roma; họ còn có ý, theo sử gia Josephus, thủ tiêu Herode. Là những người theo chủ nghĩa quốc gia, họ không phục quyền cai trị của Roma và hy vọng một ngày nào đó người Do Thái dưới sự lãnh đạo của Đấng Cứu Thế sẽ cai quản thế giới.
Cả hai nhóm này đều là kẻ thù với nhau, không phải vì nhóm Herodian liên kết với Caesar và đồng ý phục quyền của kẻ thống trị, trong khi những người Pharisiêu khinh ghét Caesar và miễn cưỡng phục tùng trong chống chối, nhưng cũng là vì những người Herodian không quan tâm đến tín ngưỡng, trong khi những người Pharisiêu xưng nhận là thành phần sùng đạo gương mẫu.
Một hôm sau khi Chúa chữa một người trong ngày Sabat, những người Pharisiêu bắt đầu lập mưu với những người thuộc đảng phái của Herode để loại trừ Người. Việc những người Pharisiêu chấp nhận tạm thời liên minh với nhóm Herodian, cho thấy sự thù ghét tột độ của họ trong việc chống lại Chúa của chúng ta. Tin mừng cho rằng kế hoạch mới này được chỉ thị trao nộp Người cho nhà cầm quyền Roma, hoặc là cho dân chúng.
Họ rình rập và sai một số người giả bộ công chính đến dò la, mong bắt quả tang Đức Giê-su lỡ lời, để nộp Người cho nhà chức trách có thẩm quyền là tổng trấn (Lc 20:20).
Những người của nhóm Herodian không thể đến với Chúa mà không gây nghi ngờ về âm mưu của họ, ngay cả những người Pharisiêu cũng thế, luôn luôn mưu mánh, khi họ đến với Chúa. Họ phái một vài người trẻ thông giỏi đến làm ra vẻ đơn sơ ngay thật mà thật ra là họ chỉ muốn dò la tin tức. Những người Pharisiêu vờ làm cho Chúa nghĩ là có sự cạnh tranh giữa họ và người Herodian, mà thực ra đó là lẽ đương nhiên. Họ muốn xếp đặt cho Người là một nhà thông thái. Họ bắt đầu bằng lời ca tụng Người, nghĩ rằng sẽ được lòng Người bằng một lời nịnh hót tâng bốc.
"Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. (Mt 22:16).
Tiếp theo là câu hỏi, một chất vấn cạm bẫy: Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không? (Mt 22:18).
Đây là thuế mà người Pharisiêu rất chống đối, nhưng theo pháp lý thì được người Herodian ủng hộ, vậy thì chúng ta nên hay không nên đóng thuế? Ai đúng ai sai – phe người Pharisiêu thù ghét và chống đối nó, hay nhóm Herodian ủng hộ nó?
Họ nghỉ là Chúa sẽ trả lời một là những người Herodian hay hai là những người Pharisiêu. Nếu Người trả lời, “Không, việc nộp thuế cho Caesar là không hợp pháp,” thì những người Herodian sẽ nộp Người cho nhà cầm quyền Roma, họ sẽ ra lệnh tử hình vì chống lại nhà cầm quyền. Nếu Người nói, “Phải đóng thuế, vì đó là pháp luật” và như vậy là Người sẽ làm phật lòng những người Pharisiêu; họ sẽ nói với dân chúng là Người không phải là Đấng Thiên Sai, bởi vì không có Vị Thiên Sai, không người giải phóng, không Đấng Cứu Chuộc nào lại đồng ý cổ động dân chúng đưa cổ của họ ra cho kẻ xâm lược tròng. Nếu Người từ chối không nộp thuế thì Người là kẻ làm loạn; Nếu Người đồng ý nộp thuế thì Người trở thành kẻ thù của dân chúng. Nói “không” thì người trở thành kẻ phản bội Caesar; nói “có” thì Người trở thành chống lại đất nước, chống lại dân tộc. Đàng nào thì Người cũng bị mắc bẫy. Khách bộ hành sẽ lên án Người là kẻ thù của vị lãnh đạo Caesar; những người chủ trương theo đạo giáo thì lên án người là kẻ thù của dân tộc. Cạm bẫy trong câu hỏi được đặt rõ trong hòa trộn giữa vấn đề tôn giáo và chính trị trong lịch sử lâu đời của Israen; nhưng bây giờ được phân cách ra. Làm thế nào để có tiêu chuẩn tuyệt đối áp dụng cho cả Thiên Chúa và Caesar?
Trả lời cho câu hỏi cạm bẫy nham hiểm này, Chúa của chúng ta nói:
Những kẻ giả hình! Tại sao lại bày mưu thử thách Ta? (Mt 22:19).
Cho dù họ bắt đầu bằng một lời khen nịnh, Chúa của chúng ta có thể nghe cái hơi nọc của Satan. Dù là họ rêu rao Người không nể sợ và không thiên vị, Người đã làm cho họ choáng váng với lời quở trách họ là những kẻ “Giả Hình.” Rồi Người nói với họ:
Hãy đưa cho Ta xem đồng tiền để đóng thuế (Mt 22:19).
Chúa chẳng có đồn nào. Do đó họ lậy ra một đồng và trao vào tay Người. Một mặt được in những dấu nét của Hoàng Đế Tiberius Caesar, và mặt kia được in danh hiệu Pontifex Maximus. Một sự im lặng nặng nề trùng xuống đám đông lúc đó khi họ thấy đồng bạc nằm trên tay của Chúa. Chẳng còn bao lâu, Đấng là Vua trên hết các vua sẽ để cho đôi bàn tay đó bị đinh xuyên thấu theo lệnh của chính người có hình in trên đồng bạc. Chúa hỏi họ:
Hình và danh hiệu này là của ai?
Họ trả lời, “Của Caesar.”
Người trả lời: “Hãy trả cho Caesar những gì thuộc về Caesar, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. (Mt 22:21,22).
Chúa của chúng ta không theo bên nào cả, bởi vì câu hỏi căn bản không phải là Chúa hay Caesar, nhưng Chúa và Caesar. Đồng tiền đó được dùng trong thị trường buôn bán hàng ngày cho thấy họ không thể không lệ thuộc vào quan điểm chính trị. Trong lãnh vực thấp hơn đó của đời sống, món nợ đối với chính phủ phải được trả. Người không dung túng cổ động cho việc tự trị; Người không hứa ủng hộ việc giải phóng. Họ còn có trách nhiệm phải nhìn nhận sự thống trị của Caesar. Tiếng Hy Lạp trong Tin mừng “trả về” hay “nộp” có hàm ý trách nhiệm luân lý như Thánh Phaolô sau này đã nói với giáo dân Roma:
Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập (Rom 13:1).
Nhưng để loại trừ sự chống đối cho rằng phục vụ chính quyền thì miễn trừ việc phục vụ Thiên Chúa , Người nói thêm: Hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.
Một lần nữa Người lại nói rằng Nước của Người không thuộc về trần gian này; tôn phục Người không có nghĩa là bất tuân phục chính quyền trần thế; tự do chính trị không phải là tự do duy nhất. Đối với những người Pharisiêu thù ghét Caesar thì lệnh cho họ là: “Trả cho Caesar”; Đối với những người Herodian quên mất Thiên Chúa để yêu Caesar thì nguyên tắc căn bản cho họ là: “Trả cho Thiên Chúa.” Giả như người ta trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Người, thì bây giờ họ không ở trong tình trạng phải nộp trả qúa nhiều cho Caesar. Người đến ưu tiên là phục hồi những quyền thuộc về Thiên Chúa. Như Người đã nói với họ trước đây, nếu họ tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước và sự công chính của Người, thì tất cả những cái khác giống như quyền tự do chính trị sẽ được ban cho họ.
Đồng tiền đó mang hình của Caesar, nhưng hình ảnh của những người chấn vấn là gì? Không phải là hình ảnh của Chính Thiên Chúa hay sao? Chính hình ảnh này mà Người đang muốn khôi phục lại. Thể chế chính trị có thể chấp nhận giữ như thế lúc này, vì Người sẽ không đụng tay vào cái thể chế tiền tệ đó. Nhưng Người sẽ hiến chính mạng sống của Người cho họ để họ trao lại cho Thiên Chúa cái thuộc về Thiên Chúa.
Câu hỏi về tự do đã nêu lên vào dịp Chúa Giêsu đi thăm Jêrusalem lần thứ hai. Người mới giảng về sự thật như điều kiện của tự do khi nói:
Sự thật sẽ giải thoát ngươi (Ga 8:32).
Giống như sự sắp xếp của các bộ phận máy móc, một người tự do nhất để chạy một bộ máy khi họ biết sự thật về bộ máy đó, trong lãnh vực tinh thần cũng vậy một người tự do nhất khi trí óc của họ được soi sáng bởi Đấng nói, “Ta là Sự Thật.”
Những người nghe người nói đã bất bình về lời ám chỉ họ bị nô lệ:
"Chúng tôi là dòng dõi ông Áp-ra-ham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói: các ông sẽ được tự do? "(Gio 8:33).
Sự tự hào này không có nền tảng. Mặc dù thời điểm đó người Roma đã thu thuế của họ như là những người cầm quyền cai trị. Theo Sách Các Thủ Lãnh, có bẩy lần họ bị nô lệ dưới quyền người Canaan. Thêm vào đó, chẳng nhẽ họ quên cả bẩy mươi năm lưu đầy bên Babylon sao? Họ cũng đã ở trong vòng nô lệ của người Palestine, người Assyrian, và Chaldeans; và bây giờ bị cai quản dưới quyền người Roma, và tiền trong túi của họ cũng là tiền Roma, và Giêrusalem dưới quyền cai quản của Philatô người Roma.
Nhưng Chúa không quan tâm đến bối cảnh chính trị; tròng nô lệ đó có thể chịu được. Nhưng nô lệ mà Chúa muốn nói đến là sự nô lệ trong tội lỗi. Ý muốn nơi con người không thể bị tấn công từ bên ngoài; nó chỉ có thể làm phản từ nội tâm, bởi tự do quyết định mà nhiều lần tạo nên sự ràng buộc của thói quen:
"Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. (Ga 8:34 -35).
Chính sự tự do mà người có tội thực hiện trong việc nuông chiều bản thân là bằng chứng họ đã bị cai trị bởi ma qủi. Chúa so sánh một kẻ nô lệ với người là con, sau khi Người đã tố cáo những người nghe đang làm nô lệ cho tội lỗi. Kẻ nô lệ không sống trong nhà mãi mãi. Năm ân xá là thời điểm ban ra để hủy bỏ đi tình trạng vĩnh viễn đó; lúc mà người nô lệ phải ra đi. Nhưng đối với người là con thì không như vậy; người con thì luôn thuộc về gia đình với sự ràng buộc không thể phá bỏ. Chúa đã so sánh kẻ nô lệ, người không vĩnh viễn thuộc về gia đình của Cha trên trời. Người tội lỗi không ở trong nhà của họ bao lâu họ còn ở trong sự ràng buộc với Satan. Nhưng Đấng ở giữa họ lại là Con của Cha trên trời.
Người Con thì ở đó vĩnh viễn (Ga 8:35).
Người, là Con, đã đến ở giữa những người đang bị nô lệ cho tội lỗi để giải thoát họ, không phải theo lối chính trị nhưng là trong tinh thần. Sự giải thoát này sẽ phục hồi tình trạng tội lỗi để được trở về nhà của Cha. Không kẻ nô lệ nào phải bị ràng buộc mãi mãi dưới quyền lực của tội lỗi, vì có Đấng sẽ cứu họ khỏi qủi dữ. Sẽ có sự giải thoát từ nhà này sang nhà kia. Nhờ đó họ có thể biết Ai là Đấng đã mang lại ơn cứu độ này, Người phán:
Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. (Lc 4:18).
Khi Người nói điều này, họ đã tìm cách giết Người bằng cách đẩy xô Người từ chỗ cao; những người này cũng chẳng đón tiếp Người khá hơn những người ở Nazarét. Sự so sánh Người dùng giữa những kẻ nô lệ của tội lỗi và Con Thiên Chúa đã qúa chói tai đối với họ. Họ biết rất rõ lời của Người về sự tự do không thể nào áp dụng cho sự tự do của họ khỏi quyền lực của Roma. Cũng không thể có sự hiểu khác được, đối với Người sự tự do duy nhất là tự do khỏi tội lỗi. Dầu vậy, họ vẫn không đón nhận Người, và Người đã nói cho họ lý do:
Tại sao các ông không hiểu lối nói của tôi? Là vì các ông không thể nghe lời tôi nói. Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối. Còn tôi, chính vì tôi nói sự thật, nên các ông không tin tôi. Ai trong các ông chứng minh được là tôi có tội? Nếu tôi nói sự thật, sao các ông lại không tin tôi? (Ga 8:45-47).
Bình thường thì một người được tin tưởng khi họ nói sự thật; ở đây thì ngược lại, sự thật lại gây nên sự bất tín. Sự thật bị ghét bỏ khi nó vạch trần cái sai tự bên trong. Dù họ chối bỏ Người, Người vẫn thách thức họ để chỉ ra cho họ thấy sự vô tội của Người. Ngay cả Giuđa sau khi phản bội cũng xưng nhận Người “vô tội.” Người đã dạy các môn đệ cầu nguyện “xin tha cho những kẻ có nợ chúng con,” nhưng Người lại không bao giờ cầu nguyện như thế; Người thực sự tha thứ tất cả những xúc phạm của người khác. Nếu tội lỗi là sự nô lệ, thì vô tội là sự tự do hoàn toàn. Tự do không phải tự bản chất của nó là sự giải thoát khỏi một ách đè từ ngoại lực; nó thực là một giải thoát khỏi ràng buộc của tội lỗi. Người không phải là một Thầy giảng dạy về sự tự do; Người là Đấng Giải Thoái – và giải thoát khỏi một sự nô lệ lớn lao hơn là với Roma. “Người Con làm cho anh em được tự do.” Nhưng phải được trả một giá, như Người giải thích ở phần sau đây về Tự Do.
Thời gian thăm viếng Galilê đã hết; Chúa tránh sự để ý của quần chúng bao nhiêu có thể, và hy sinh để gây ấn tượng trên các môn đệ về bài học Cây Thập Giá, điều mà họ không hiểu cho tới sau khi Lễ Ngũ Tuần. Vừa khi đến Ca-phar-na-um, những người thu thuế đền thờ đến gặp Phêrô, một là họ không ủng hộ việc đóng thuế, hay là lý do nào đó mà họ đã có lời tố cáo Thầy của Phêrô:
“Thầy của các ông không đóng thuế đền thờ sao?” (Mt. 17:25)
Thuế đền thờ phát nguồn từ việc đóng thuế thân như giá chuộc cho linh hồn của họ, được hiểu như sự nhìn nhận rằng đời sống của họ đã bị mất đi vì tội lỗi. Thuế xuất hành áp đặt trên tất cả nam giới từ hai mươi tuổi để trang trải các chi phí đền thờ. Tiền thuế đóng khoảng nửa đồng, tương đương với 30 xu tiền Mỹ.
Vấn nạn về việc Chúa nộp thuế đền thờ không phải là đơn giản. Người đã nói chính Người là Đền Thờ của Thiên Chúa, và đã thi hành quyền của người trên đền thờ vật chất bằng việc đánh đuổi những người buôn bán ở đó. Chẳng lẽ Người, Người đã nói Mình là đền thờ của Thiên Chúa vì Thần Tính ở nơi bản tính nhân loại của Người bây giờ lại nộp thuế đền thờ hay sao?
Nộp thuế đền thờ sau khi Người đã xác nhận trong ngày lễ Lều Tạm Người là Con Thiên Chúa có thể sẽ gây nên sự hiểu lầm trầm trọng. Điểm nói đến ở đây không phải là Chúa nghèo túng; vấn đề là có hay không, Người, Đấng là Đền Thờ sống động của Thiên Chúa lại phải bị ràng buộc chính mình vào cái là dấu chỉ về chính Người.
Để trả lời cho câu hỏi của người thu thuế đền thờ, Phêrô trả lời rằng Chúa có nộp thuế. Phêrô đã không tham khảo với Chúa để biết xem Người có hay là không phải nộp thuế. Ông vào trong nhà sau khi đã trả lời. Trước khi Phêrô có cơ hội để lên tiếng, Chúa đã nói với ông, cho thấy là Người đã biết cuộc nói chuyện ở bên ngoài. Tất cả đều tỏ lộ chẳng che dấu được trước mắt của Người; không gì có thể bưng bít được.
"Anh Si-môn, anh nghĩ sao? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu nộp thuế? Con cái mình hay người ngoài? "(Mt 17:24).
Người biết rằng Phêrô đã trả lời cho những người thu thuế là Người có nộp. Câu trả lời cho thấy là Phêrô đã quan niệm sai trong lúc đó, về chân tính của Thầy, Đấng là Con ở trong chính căn nhà của Người là Đền Thờ, chứ không phải là một người đầy tớ trong nhà của một người khác. Dường như cũng cùng một ý rằng Chúa đã nhấn mạnh khi nói với những người Pharisiêu. Người bảo họ là những người đầy tớ, không phải là đối với quyền chính trị đời, nhưng là đầy tớ của tội lỗi, và Người chỉ muốn cứu họ thoát khỏi sự nô lệ của tội lỗi mà thôi. Khi Phêrô trả lời:
"Thưa, người ngoài . . ." Đức Giê-su liền bảo: "Vậy thì con cái được miễn. (Mt 17:25).
Một hoàng đế không đòi gia đình của người phải nộp thuế để bảo trì cung điện mà chính gia đình của nhà vua đang sống ở đó. Bởi thế, Người là Thiên Chúa, là Đấng trao hiến chính đời mình làm của đền bù, chả nhẽ người lại phải nộp thuế đền bù hay sao? Vì Người là Đền thờ, và cũng là của lễ hiến tế, vậy Người cũng phải nộp thuế của lễ hiến tế hay sao? Do đó Người đã để mình ở ngoài vòng của những người có tội. Tự do Người trao ban là sự tự do tinh thần chứ không phải chính trị.
Sau khi đã xác định như một vị Vua Trời, Người được miễn trừ tất cả các thuế trần gian, Người quay sang Peter và nói:
Để khỏi làm gai mắt họ, anh ra biển thả câu; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng ra: anh sẽ thấy một đồng tiền bốn quan; anh lấy đồng tiền ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh.” (Mt 17:27)
Con của vua thì được miễn thuế. Nhưng Người Đấng là Con Thiên Chúa trở nên Con Người chia sẻ sự nghèo túng, thử thách, lam lũ, và vô gia cư. Sau này, Người lại chịu để bị bắt giữ, đội vòng gai nhọn, và treo trên Thập Giá. Lúc này, là Con Người, Người không đứng ở tính vị của Con Thiên Chúa, cũng chẳng đòi miễn trừ khỏi bổn phận phục tùng, nhưng tự nguyện nộp thuế để tránh làm gai mắt. Không phải địa vị cao trọng luôn xác định quyền lợi của một người, nhưng lại hay dễ bị khinh thường. Có thể sẽ là một cái gai làm tai tiếng nếu Người tỏ ra coi thường đền thờ. Như Người đã tự nguyện lãnh nhận phép rửa bởi Gioan để chu toàn lề luật; như Mẹ Người dâng đôi chim câu, dù bà không cần sự thanh tẩy khi sinh hạ ra Người; bởi thế Người đã bằng lòng nộp thuế để thánh hóa sự trói buộc nhân loại Người tự mang lấy.
Trong câu trả lời của Người, Người đã liên hệ Phêrô với Người. Chưa bao giờ khi nói về Cha của Người Trên Trời mà Người lại nói nhân loại và Người như “Cha của chúng ta.” Thoạt đầu giống như Người đã làm thế trong kinh “Lậy Cha,” ám chỉ rằng loài người và Người cùng là con cái của Cha trên trời giống như nhau. Nhưng thực ra các Tông Đồ đã hỏi Người cách cầu nguyện, và Người dạy họ kinh “Lạy Cha.” Chúa Giêsu của chúng ta luôn phân biệt giữa “Cha của chúng con” và “Cha của Thầy.” Người là Con theo bản tính; con người là con thừa nhận của Thiên Chúa. Giống như thế, Người không bao giờ nhận liên hệ bất cứ người nào với chính Người ngoại trừ Phêrô, như Người làm ở đây khi Người nói, “Chúng ta sẽ không làm cho lương tâm họ bị đau phiền.” Ông, người đã được gọi là viên đá, người sẽ được gọi là kẻ chăn chiên, và là kẻ đã được trao cho chìa khóa Nước Trời, ở đây được liên hệ rất thân cận với Đức Kitô hơn bất cứ ai khác.
Dù Người không phải nộp thuế, Người đã chuẩn bị để nộp; dù Người vô tội, Người đã nhận lấy hình phạt của tội lỗi; dù người không phải chết, Người đã nhận lấy cái chết; dù Người không phải vác Thập Giá, Người đã ôm lấy Thập Giá. Như những người thâu thuế đã không cưỡng bắt Người nộp tiền, cả những người lính Roma và tòa thượng thẩm cũng không trói Người trên cây Thập Giá nếu Người không tự ý muốn như thế. Như vậy là không còn sự trừng phạt nữa, vì Người đã trả giá cứu chuộc.
Phêrô đã nộp thuế, nhưng Chúa của chúng ta đã nộp cùng với ông. Cả hai người chia sẻ sự phục lụy. Bởi thế, Chúa của chúng ta nói, “Hãy nộp số tiền thuế cho Thầy và cho anh.” Người không nói là “cho chúng ta,” bởi vì có một sự khác biệt vô hạn giữa Ngôi Vị Thiên Chúa và con người của Phêrô. Chúa sẽ trả nợ để cứu chuộc khỏi tội lỗi; cho dù Người được miễn trừ. Phêrô phải nộp thuế bởi vì Phêrô có liên lụy trách nhiệm. Chúa nộp thuế bởi vì sự khiêm nhường; Phêrô nộp thuế bì bổn phận.
Cách nộp thuế có thể là một bài học cho Phêrô, nghĩa là khi nhìn nhận quyền của các vị lãnh đạo đền thờ, Chúa vẫn tỏ Mình ra Người là Chúa của muôn loài. Các Tông Đồ đã từng ngạc nhiên trước đó khi thấy gió biển vâng phục Người; bây giờ cái quyền ở ngoài biển ấy lại vâng phục. Giống như sự chết và vinh quang luôn liên kết trong mọi lời tuyên bố của Người, thì bây giờ sự khiêm tốn nộp thuế được liên kết với quyền tối thượng trên thiên nhiên và cá biển. Tiền thuế được cung cấp bởi phép lạ từ sự toàn trí và toàn trị trên mọi loài, trong con cá mà Phêrô câu được có mang đồng tiền đủ số lượng thuế cho Người và cho Phêrô. Hai sợi giây khiêm tốn và uy lực vô song được đan kết lại với nhau giống như ở mọi lời của Người liên quan đến Thánh Giá và Vinh Quang. Không bao giờ có cái này mà lại thiếu cái kia. Ngay từ ban đầu, Hài nhi yếu đuối nơi hang đá được bù lại với bài ca của các thiên thần và ngôi sao di chuyển dẫn lối cho các nhà Thông Thái đến bái phục dưới chân Người. Bây giờ, như Con Thiên Chúa, Người được miễn trừ khỏi luật đạo, thế mà Người vẫn nộp thuế; sau đó, cho dù được miễn trừ khỏi luật của quyền chính trị đời, Người lại bảo với Philatô rằng quyền lực của ông như một quan tòa là đến từ Người, thế mà Người lại chấp nhận một phán quyết sai lầm.
Qua nhiều thế kỷ, từ thời bốn mươi năm nơi sa mạc, tất cả mọi con của Abraham đã phải trả giá đền bù cho linh hồn của họ cần thiết cho việc cứu chuộc. Tiền chuộc không còn cần thiết nữa, vì Đấng Vô Tội sẽ mang lấy tội lỗi. Người nói với những người nghe Người, “Hãy trả cho Caesar những gì thuộc về Caesar.” Do đó, bây giờ, Người trả lại cho đền thờ trần gian những cái thuộc về đền thờ trần gian. Miễn trừ khỏi những bổn phận này không nhất thiết làm cho con người được tự do. Tự do tiên khởi, là sự tự do khỏi sự dữ, sẽ được mua bởi Đấng tự nguyện làm nô lệ. Như thánh Phaolô diễn tả:
Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng:"Đức Giê-su Ki-tô là Chúa". (Philiphê 2:6-11)