Giải thích những gì ở thế giới chung quanh chúng ta là một phần của cuộc sống hàng ngày. Nhà khí tượng giải thích thời tiết, khí hậu, nhiệt độ, sức gío và những yếu tố khí tượng khác để tiên đoán thời tiết cho những ngày trong tuần. Đôi khi họ nói trúng. Chúng ta đọc những tiên đoán của các nhà chuyên môn bình luận về kinh tế khi họ giải thích những thống kê về các sinh hoạt kinh tế. Chúng ta chú ý lắng nghe lời giải thích của bác sỹ về kết qủa khám sức khỏe tổng quát hàng năm để biết tình trạng sức khỏe của mình. Những người hành nghề chuyên nghiệp này giải thích những dữ kiện có trong tay để cắt nghĩa cho chúng ta hiểu ý nghĩa của mỗi trường hợp.
Bạn và tôi, chúng ta cũng là những nhà giải thích. Bạn nhận được lá thư từ một người cậu và đọc xem lá thư nói gì và ý nghĩa của lá thư là gì. Bạn khám xét những chấm đen trên những chiếc lá của cây hoa hồng, và tìm hiểu nguyên do làm cho lá cây hoa bị tàn héo, rồi tìm giải pháp trị liệu. Bạn nghe thấy tiếng động trong đêm tối và lần mò đi xuống lầu dưới đển tìm nguyên do gây ra tiếng động. Trong mỗi trường hợp bạn đều đặt ra ba câu hỏi:
Đây là những câu hỏi tổng quát cho việc giải thích.
Để hiểu ý nghĩa của bất cứ một vấn đề gì trước tiên chúng ta phải khám xét cẩn thận hiện tượng để xem nó là cái gì. Việc phân tích này đòi phải có chút kiến thức về vấn đề đó, có con mắt tinh luyện biết nhìn ra những dấu chỉ của hiện tượng, và có sự hiểu biết về những dấu chỉ đó có nghĩa gì. Nha sỹ khám răng phải có kiến thực về răng, biết tìm cái gì ở răng, và ý nghĩa của điều người nha sỹ đó tìm xem.
Chúng ta cũng dùng việc giải thích để đi xa hơn là ý nghĩa hiển nhiên. Nhà khí tượng có thể nói cho bạn về ý nghĩa của những hiện tượng thời tiết, nhưng chúng ta cũng muốn biết rộng hơn. Bạn muốn hiểu thêm xem hiện tượng thời tiết đó ảnh hưởng thế nào đến địa phương của bạn vào ngày mai. Bạn hài lòng về việc giải thích chuyên nghiệp của nha sỹ về tình trạng răng của bạn, nhưng bạn muốn hơn thế. Bạn muốn biết phải làm gì để chữa trị răng của bạn và bạn phải tốn bao nhiêu tiền!
Trong phần này, chúng ta sẽ học biết phương pháp đem ý nghĩa của bản văn áp dụng vào việc diễn giải trong bài giảng. Ý nghĩa đó là ý nghĩa thần học. Ý nghĩa đó thuộc về Thiên Chúa và bản tính, đường lối, cũng như cách Ngài làm việc với tạo vật đặc biệt là với con người. Trong phân tích ở phần I, chúng ta đã bắt đầu nhìn ra điều gì tác giả nói đến. Bây giờ không những chúng ta phải hiểu nhưng cũng còn phải thông đạt điều tác giả nói đến với thính giả của chúng ta. Mục tiêu là chúng ta có bài giảng nói điều mà bản văn muốn nói, theo như ý nghĩa thần học. Thiên Chúa đã tỏ mình ra một lần trong bản văn, và chúng ta muốn cho việc tỏ mình ra đó của Ngài được thể hiện lần nữa cho thính giả của chúng ta.
Thuật 4 là đặt tên cho tư tưởng của bản văn. Việc chủ yếu của chúng ta ở đây là xác định xem tác giả nói gì với một lời diễn tả rõ ràng.
Thuật 5 là bác cầu nối từ bản văn tới bài giảng. Việc chủ yếu ở đây là đưa bản tin từ bản văn Thánh Kinh tới thính giả của chúng ta mà không bị lạc đề.
Thuật 6 là biên soạn các phân bộ của bài giảng. Việc chuẩn bị cho bài giảng ở đây là khám phá ra điều tác giả nói về chủ đề, rồi viết ra những câu rõ ràng cho thứ tự từng phần của bài giảng.
Ba thuật trong phần này đều đặt chú trọng về tiến trình giải thích, trong đó chúng ta phân định ý nghĩa của bản văn và chuẩn bị trình bày nó trong bài giảng với ý tưởng chính và những gì tác giả nói về ý tưởng chính đó. Sau đây là ý nghĩa tóm lược về phương pháp cổ truyền chúng ta học theo trong tiến trình này.
Thách đố trong mọi hệ thống chuẩn bị bài giảng là làm thế nào để đi từ bản văn đến bài giảng với một bản tin. Bạn có thể tự hỏi tại sao các vị giảng thuyết lại phải vật lộn với một vấn đề nối kết hiển nhiên dễ hiểu như vậy. Tại sao không đọc bản văn rồi giảng giải về điều bản văn nói đến? Nói cách đơn giản thì đó chính là điều chúng ta làm. Nhưng cũng có nhiều hầm hố dọc theo trên đường. Chúng ta cần có chiến lược để đi theo đúng lề lối hầu tránh khỏi bị rơi vào hầm hố. Chúng ta muốn có cấu trúc căn bản và bản tin của bản văn làm nên bài giảng.
Giống như chúng ta đã làm từng bước trong việc phân tích bản văn ở phần I, bây giờ chúng ta sẽ làm theo từng bước trong việc giải thích ý nghĩa thần học của bản văn như nó được trình bày trong bài giảng. Những bước này được tập trung trong việc biên soạn bốn câu liên hệ. Cẩn thận biên soạn những câu riêng biệt này đòi hỏi chúng ta phải có tư tưởng rõ ràng khi chúng ta để cho bản văn hình thành ra bài giảng.
Câu đầu tiên bạn sẽ phải viết là một câu nói về tư tưởng của bản văn. Tâm điểm của câu này là lời xác định cẩn thận về tư tưởng chính của tác giả. Thay vì chỉ nhận định chủ đề cách bao quát, chúng ta sẽ học cách chú trọng tới vấn đề chung theo ý của tác giả. Chúng ta sẽ thực tập việc quan trọng này ở phần của thuật số 4. Sau khi khám phá ra tư tưởng chính của tác giả, chúng ta sẽ nhận định những yếu tố chính trong bản văn gốc và đưa vào câu nói viết về tư tưởng của bản văn để nó là một lời xác định lịch sừ theo thời qúa khứ.
Câu văn thứ hai trong phương pháp giải thích này là câu văn viết về tư tưởng bài giảng. Câu này duy trì ý chính của tác giả trong bản văn, nhưng bỏ đi những yếu tố lịch sử, để chỉ chú ý đến lời nói lên chân lý thần học phổ quát vượt thời gian. Câu văn nói về tư tưởng bài giảng chứa đựng cùng ý nghĩa giống như tư tưởng của bản văn, nhưng nó nói với thính giả ngày nay. Toàn thể bài giảng sẽ được sắp xếp như là một diễn giải đầy đủ hơn về tư tưởng của bài giảng. Viết ra hai câu xác định này sẽ là phần của việc làm trong thuật thứ 5, Bác cầu nối từ Bản Văn tới Bài Giảng.
Câu văn thứ ba trong phương pháp này được gọi là câu Nghi Vấn, trong đó tư tưởng của bài giảng được viết như một câu hỏi. Viết câu này sẽ là phần của việc làm trong thuật số 6, khi chúng ta sửa soạn viết những câu cho từng phần của bài giảng.
Sau cùng bạn sẽ viết một câu chuyển tiếp để mở lối vào thân bài giảng và vào những câu nơi từng phân bộ của bài giảng. Câu này sẽ bao gồm một yếu tố quan trọng gọi là Chữ Khóa. Câu chuyển tiếp này sẽ dẫn tới việc tác giả đối xử với vấn đề trong bản văn và giới thiệu các phân bộ của bài giảng để nó phản ảnh cấu trúc của bản văn.
Từ Bản Văn tới Bài Giảng: Bốn Câu Tư Tưởng Bản Văn: Tư tưởng chính của bản văn được viết lên theo một câu văn ở thời qúa khứ. Nó bao gồm những yếu tố lịch sử liên quan trong bản văn -- tác giả hay phát ngôn viên, độc gỉa hay nhân vật phụ, văn giọng hay mục đích của bản văn, văn cảnh và những hình thức văn chương. Tư Tưởng Bài Giảng: Giống với tư tưởng chính của tư tưởng bản văn, nhưng viết theo thời hiện tại, câu văn nói lên tính phổ quát và không có những yếu tố lịch sử qúa khứ của tư tưởng bản văn. Câu Nghi Vấn: Tư tưởng bài giảng được chuyển dịch sang câu hỏi bằng việc dùng một trong những chữ sau đây: Ai, điều gì, khi nào, ở đâu, tại sao, làm thế nào. Sau đó nó đề cập đến những hình thức tác giả đối xử với chủ đề. Câu Chuyển Tiếp: Trả lời cho nghi vấn bằng việc giới thiệu Chữ Khóa mà chữ đó phân loại những hình thức tìm thấy trong bản văn và giới thiệu chúng như là các phân bộ của bài giảng. |
Bốn câu nối nhịp này đưa bạn đi từ ý nghĩa của bản văn tới việc giảng giải ý nghĩa đó trong bài giảng. Tiến trình này dường như việc giải thích giống máy móc. Tuy nhiên bạn sẽ nhận ra rằng nó sẽ giúp bạn đi theo lề lối. Chúng sẽ cung cấp cho bạn cách suy nghĩ đi thẳng lối từ bản văn tới bài giảng và cho bạn thấy tin tưởng là mình giảng theo bản tin thần học của bản văn.
Những câu nối nhịp cầu này cũng giúp cho thính giả tiếp nhận được vấn đề và điểm chính của bài giảng. Có thể bạn sẽ cho là kỳ cục để nói lên bốn câu này trong phần mở đầu, nhưng đối với thính giả thì nó không phải là việc làm máy móc.
Giải thích Thánh Kinh là một thách đố với ba lý do:
Bản chất của người có niềm tin trong thời đại ngày nay là một thách đố đối với chúng ta trong nỗ lực giải thích Thánh Kinh.
Vấn đề nằm trong lãnh vực chủ quan của chúng ta. Điều đó có nghĩa là chúng ta có khuynh hướng giải thích mọi điều, ngay cả Thánh Kinh, theo quan điểm và ý thích cá nhân. Ý thức điều đó hay không, chúng ta mang theo tất cả những gì là chúng ta vào việc giải thích của mình. Một cách nào đó, trí khôn của chúng ta đã quyết định rồi. Chúng ta đã sẵn có ý nghĩ và ý tưởng về hầu hết mọi vấn đề. Nhưng ý nghĩa chúng ta tìm trong một đoạn văn không phải là ý nghĩa chúng ta đem đến do sự suy nghĩ của riêng chúng ta. Nó là ý nghĩa khách quan được tìm thấy trong những lời phát biểu của tác gỉa từ ban đầu.
Sức ép đi tìm một vấn đề để giảng luôn luôn là một thách đố đối với các nhà giảng thuyết. Đối diện với bản văn thường phản ảnh chủ đích của chúng ta là việc chuẩn bị bài giảng. Hầu hết chúng ta đến với Thánh Kinh là để tìm cho các bài giảng giống như trẻ em đi săn trứng Phục Sinh ngoài vườn cỏ. Chúng biết là những trái trứng mầu không thường xuyên xuất hiện ở đó. Vườn cỏ chỉ là nơi những trái trứng được khôn khéo giấu ở đó. Giống như thế, bản văn của Thánh Kinh có thể được coi như là nơi mà một số bài giảng được giấu ẩn cách khôn khéo ớ trong đó. Điều quyến dũ chúng ta là bỏ qua trang thêu dệt lớn hơn của bản văn để chỉ đi tìm lấy ra một bài giảng và tiếp tục tiến bước.
Bản chất của Thánh Kinh tự nó đem đến một thách đố thứ hai trong việc giải thích.
Thánh Kinh là một cuốn sách Thần-Nhân, viết bởi con người nhưng chứa đựng lời của Thiên Chúa. Là những người giải thích, chúng ta phải làm việc với nguồn gốc của sự giằng co lưỡng diện này khi chúng ta nỗ lực phân nhận những chất lượng thuộc nhân loại của những người viết với những chất lượng thần linh của bản tin. Chúng ta thấy con dấu của cá tính nơi mỗi bản văn chúng ta tìm hiểu. Cách viết của Phao-lô không giống như cách viết của Phê-rô. Thánh Lu-ca không viết theo kiểu viết của thánh Gio-an. Việc các ngài chọn lọc nội dung, văn thể, từ ngữ và những chủ đề thích hợp nói lên sự khác biệt trong lối hành văn. Tuy thế, Thần Khí của Thiên Chúa thôi thúc các ngài viết bản tin thánh.
Thánh Kinh cũng chứa đựng một sự giằng co khác cho người giải thích, đó là tính cách riêng biệt và phổ quát của bản tin. Bản tin phát xuất từ những trường hợp riêng biệt trong lịch sử, và tuy vậy, nó vẫn chứa đựng những chân lý phổ quát có giá trị ở mọi thời đại. Người giải thích phải làm việc với những trường hợp riêng của những người đã viết Thánh Kinh cùng với tính phổ quát vô thời gian của bản tin. Thực vậy, chúng ta chỉ có thể phân định những chân lý bất biến do sự hiểu biết điều mà các thính giả ban đầu đã nghe trong tình cảnh riêng của họ.
Thách đố thứ ba cho người giải thích là sự khác biệt giữa thế giới trong Thánh Kinh và thế giới của riêng chúng ta.
John R. W. Stott trình bày công việc rao giảng như việc xây nhịp cầu. Người rao giảng phải xây nhịp cầu giữa thế giới trong Thánh Kinh và thế giới ngày nay để nối giao thông của khoảng cách sâu và rộng của 2000 năm văn hóa thay đổi. Chúng ta hấy sự chia cách này như là một khoảng cách thông tin. Các nhà rao giảng thường gặp hai lỗi lầm khi làm việc với khoảng cách sâu xa rộng lớn này. Một số người có khuynh hướng dừng lại ở thế giới của Thánh Kinh và không bao giờ xây nhịp cầu với thính giả ngày nay. Những người khác lại có khuynh hướng đi với phía thời đại và không xây nhịp cầu với Thánh Kinh là sử liệu của đức tin. Chúng ta chỉ là những người diễn giải Thánh Kinh trung thực nếu chúng ta để cho bản văn Thánh Kinh nói, và chúng ta đứng vững với một chân bên phía Thánh Kinh và một chân bên phía của con người ngày nay.
Nếu chúng ta là những người diễn giải trung thực, chúng ta phải cẩn trọng làm việc với cả ba thách đố này: (1) Bản chất của những người có niềm tin, (2) Bản chất của Thánh Kinh và (3) Khoảng cách của thế giới trong Thánh Kinh. Bây giờ chúng ta cứu xét đến những nguyên tắc hướng dẫn chúng ta trong việc giải thích Thánh Kinh.
Từ ngữ giải thích có thể dùng để chỉ “hiểu am tường,” “chuyển dịch,” hay “cắt nghĩa.” Ba công việc của khấu trình giải thích này cũng thích hợp cho việc giảng thuyết. Trước hết là chúng ta tìm hiểu am tường xem bản văn nói về điều gì. Sau đó chúng ta chuyển dịch điều đó sang bản tin ngụ ý thần học. Sau cùng chúng ta cắt nghĩa bản tin đó với cộng đoàn.
Người giải thích cần có kiến thức làm việc với những nguyên tắc của việc giải thích. Những nguyên tắc giải thích này giống như những mẹo luật thương mại. Chúng hướng dẫn ta khảo sát bản văn hầu giúp cho công việc chúng ta làm được giữ ở trong lãnh vực của việc giải thích. Giả thuyết ở đàng sau những nguyên tắc này là chính bản văn sẽ để lộ ra ý nghĩa của nó để cho người giải thích nhận thấy.
Giải thích Thánh Kinh là một khoa học và là một nghệ thuật của việc hiểu am tường, chuyển dịch và cắt nghĩa ý của bản văn Thánh Kinh. Hướng dẫn theo tiến trình này, vị giảng thuyết có thể làm theo những nguyên tắc căn bản giúp người giải thích phân nhận chủ ý của tác giả bản văn hơn là cưỡng chế tư tưởng của riêng cá nhân mình vào bản văn. Sau đây là bảy nguyên tắc được đề nghị.
Giải thích bản văn cách hiệu lực phải đặt trọng tâm ở thần học. Việc học hỏi bản văn để chuẩn bị bài giảng bao gồm những yếu tố lịch sử, văn chương và thần học của đoạn văn. Dầu vậy, trọng tâm chính của việc giải thích bản văn cho bài giảng vẫn phải là thần học. Thần học là môn học về Thiên Chúa và đường lối của Ngài đối với tạo vật, cách riêng là con người. Bản tin của Thánh Kinh căn bản là thần học. Do đó nội dung của bài giảng phải là thần học.
Ở giai đoạn học tập dọn bài giảng này, chúng ta làm việc theo lối giải thích thần học. Ở phần đầu chúng ta chú ý đến việc phân tích bản văn. Bây giờ chúng ta chuyển qua việc phân định ý nghĩa của bản văn như nó được trình bày trong bài giảng. Tất cả mọi bài giảng là giải thích, và việc giải thích Thánh Kinh cuối cùng cũng thuộc thần học. Cho dù trước đây bạn có nghĩ về cách giảng của bạn theo quan điểm này hay không, hy vọng bạn sẽ coi trách nhiệm của mình như là việc giải thích thần học của bản văn tới cảm nghiệm của thính giả.
Ba việc phải làm trong phần này:
Ước mong của chúng ta là bạn có thể giảng khá hơn do việc thăng tiến khả năng của bạn trong lối làm việc này. Dầu chúng ta chú ý đến kiểu mẫu truyền thống theo từ ngữ chính cho bài giảng, các thuật trong ba việc làm này sẽ giúp bạn rất nhiều trong bất cứ lối giảng thuyết nào.
Việc đầu tiên chúng ta phải làm là đặt tên cho tư tưởng của bản văn. Ở bước này, chúng ta dùng tất cả những gì đã học biết được ờ phần phân tích bản văn để nhận ra vấn đề thần học mà tác giả có ý viết trong bản văn. Chúng ta phân loại ra tất cả các chủ đề thần học và những liên hệ của các chủ đề đó trong bản văn để nhận định xem đề tài nào là chính và đề tài nào là phụ. Chúng ta đặt tên từ bản văn cho một đề tài và một phụ diễn từ để chúng diễn tả cho chủ đề của bản văn. Ý tưởng này sẽ trở nên chủ đề cho bài giảng. Đề tài sẽ trả lời câu hỏi, “Tác giả nói về vấn đề gì trong bản văn?” Câu phụ diễn từ sẽ là: “Tác giả giới hạn thế nào trong việc thảo luận về vấn đề đó?”
Việc thứ hai phải làm trong phần giải thích ở việc chuẩn bị bài giảng là bác cầu nối tới bài giảng. Giải thích bản văn trong việc giảng thuyết bao gồm ba giai đoạn: Giải thích ý nghĩa của bản văn, theo thần học và tới thính giả. Cầu nối giữa bản văn và bài giảng và việc thuộc về thần học. Trong việc học tập này chúng ta sẽ đề nghị bốn câu viết vị giảng thuyết có thể dùng để xây cầu nối:
(1) Một câu viết về tư tưởng của bản văn.
(2) Một câu viết về tư tưởng của bài giảng.
(3) Một câu viết đặt vấn đề;
(4) và một câu viết chuyển tiếp.
Việc thứ ba phải làm trong vấn để giải thích thần học là viết những lời cho các phần của bài giảng. Một khi chúng ta đã tìm ra ý chính từ những lời của tác giả có ý viết trong bản văn, chúng ta có nền tảng để phân định xem tác giả nói gì về ý tưởng chính đó. Bản văn tỏ bày việc tác giả bàn luận về vấn đề được nói đến. Trong bản văn chúng ta tìm thấy những khía cạnh của đề tài mà tác giả trình bày nơi bản văn. Những khía cạnh suy nghĩ đó sẽ trở nên những phần của tư tưởng trong bài giảng. Chúng ta sẽ diễn tả mỗi khía cạnh bằng một lời rõ ràng theo chân lý thần học.
Với những khía cạnh căn bản cho công việc giải thích, chúng ta bắt đầu đi vào việc đặt tên cho tư tưởng của bản văn.